Luận văn " CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM "

507
608
117
50
thuộc nhiều vào s cải cách thành công ca các doanh nghiệp nhất là các
doanh nghiệp N nước. Mục tiêu tới năm 2006, Trung Quốc sẽ cải cách 4
NHTM QD theo hướng đưa các ngân hàng này trở thành các NHTM hiện đại
clớn, hoạt động lành mạnh trên th trường. Trong đó, biện pháp chính mà
Trung Quốc đưa ra đó chuyển các NHTM 100% vốn Nhà nước thành các
ngân hàng cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Hơn nữa, để làm
giảm nhẹ các khoản cho vay xấu, việc thành lập các công ty quản lý tài sản với
đầy đủ quyền giải quyết tình hình nkhó đòi. Các công ty này hin đang chịu
trách nhiệm trước hết đối với việc mua các khoản nợ khó đòi từ 4 NHTM QD
theo giá trsổ sách, điều đó đã tạo ra cho các ngân hàng này nguồn trợ cấp để
làm sạch danh mục vốn cho vay của mình. Hot động kiểm toán các khoản nợ
khó đòi được tiến hành khá thành công, và đưa ra cơ hội cho cả các nhà đầu
trong và ngoài nước- những ai muốn nắm cơ hội đối với các nguồn tài sản này.
Về việc thực hiện công tác thanh lý toàn diện tài sản tiền tệ trên toàn
quốc. Để triển khai công tác này, Trung Quốc yêu cầu các ngân hàng trước hết
cần thanh lý thực sự, tìm con số, truy thu theo pháp luật, duy trì quyền nợ,
xây dựng những quy định, quản quy phạm, xác định ràng nhiệm vụ,
nghiêm khắc kiểm tra. Tham khảo các kinh nghiệm và kĩ thuật tiên tiến quản
lý chất lượng vốn của các ngân hàng quốc tế, trên cơ sở thí nghiệm từng bước,
các ngân hàng triển khai các biện pháp kiểm tra và phân loại 5 cấp chất lượng
tài sn. Lâu nay, Trung Quốc chia các khoản vay thành hai loại bình thường và
không chính đáng, sau đó lại phân thành ba loại quá kỳ, nợ đọng và không chi
trả. Cùng với sự đi sâu cải cách thể chế tiền tệ, những hình thức phân chia này
đã lạc hậu không thphản ánh kịp thời ảnh hưởng đối với rủi ro cho vay của
ngân hàng khi doanh nghiệp thay đổi sản xuất kinh doanh. Bởi vậy, nhằm kịp
thời phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và chất lượng khoản
tiền cho vay, căn cứ vào thông lquốc tế, Trung Quốc đã áp dụng phân loại
năm cấp chất lượng khoản vay là: bình thường (pass), đặc biệt chú ý (special
mention), ới tiêu chuẩn (substandard), nghi ngờ (doubtful) coi như mất
50 thuộc nhiều vào sự cải cách thành công của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước. Mục tiêu tới năm 2006, Trung Quốc sẽ cải cách 4 NHTM QD theo hướng đưa các ngân hàng này trở thành các NHTM hiện đại cỡ lớn, hoạt động lành mạnh trên thị trường. Trong đó, biện pháp chính mà Trung Quốc đưa ra đó là chuyển các NHTM 100% vốn Nhà nước thành các ngân hàng cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Hơn nữa, để làm giảm nhẹ các khoản cho vay xấu, việc thành lập các công ty quản lý tài sản với đầy đủ quyền giải quyết tình hình nợ khó đòi. Các công ty này hiện đang chịu trách nhiệm trước hết đối với việc mua các khoản nợ khó đòi từ 4 NHTM QD theo giá trị sổ sách, điều đó đã tạo ra cho các ngân hàng này nguồn trợ cấp để làm sạch danh mục vốn cho vay của mình. Hoạt động kiểm toán các khoản nợ khó đòi được tiến hành khá thành công, và đưa ra cơ hội cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước- những ai muốn nắm cơ hội đối với các nguồn tài sản này. Về việc thực hiện công tác thanh lý toàn diện tài sản tiền tệ trên toàn quốc. Để triển khai công tác này, Trung Quốc yêu cầu các ngân hàng trước hết cần thanh lý thực sự, tìm rõ con số, truy thu theo pháp luật, duy trì quyền nợ, xây dựng những quy định, quản lý quy phạm, xác định rõ ràng nhiệm vụ, nghiêm khắc kiểm tra. Tham khảo các kinh nghiệm và kĩ thuật tiên tiến quản lý chất lượng vốn của các ngân hàng quốc tế, trên cơ sở thí nghiệm từng bước, các ngân hàng triển khai các biện pháp kiểm tra và phân loại 5 cấp chất lượng tài sản. Lâu nay, Trung Quốc chia các khoản vay thành hai loại bình thường và không chính đáng, sau đó lại phân thành ba loại quá kỳ, nợ đọng và không chi trả. Cùng với sự đi sâu cải cách thể chế tiền tệ, những hình thức phân chia này đã lạc hậu không thể phản ánh kịp thời ảnh hưởng đối với rủi ro cho vay của ngân hàng khi doanh nghiệp thay đổi sản xuất kinh doanh. Bởi vậy, nhằm kịp thời phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và chất lượng khoản tiền cho vay, căn cứ vào thông lệ quốc tế, Trung Quốc đã áp dụng phân loại năm cấp chất lượng khoản vay là: bình thường (pass), đặc biệt chú ý (special mention), dưới tiêu chuẩn (substandard), nghi ngờ (doubtful) và coi như mất
51
(loss) với các mức d phòng khác nhau cho mỗi loại: từ 1% cho nợ bình
thường đến 50% cho nnghi ngờ và 100% cho loại nợ coi như mất. Phương
pháp này tương đối khách quan, nó có thể kịp thời phản ánh tài sản chân thực
của doanh nghiệp tiền tệ, có lợi cho việc chủ động phòng ngừa rủi ro cho vay.
được tđiểm đầu tiên tỉnh Quảng Đông sau đó mở rộng thực thi trên
toàn quốc.
4. Về cơ cấu lại hoạt động của ngân hàng
Các NHTM Trung Quốc đã đẩy mạnh các chiến lược kinh doanh đa
năng, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, phát triển các nghiệp vụ truyền thống
bên cạnh đó là đẩy mạnh phát triển các nghiệp vụ mới nhằm mang lại nhiều lợi
nhuận, tăng ờng khả năng cạnh tranh và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
ngân hàng như nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, các nghiệp vụ trung gian…
Bên cnh đó, từ năm 90 trở lại đây, cùng với việc chuyển đổi ngành
ngân hàng Trung Quốc và sphát triển sâu sắc của mcửa đối ngoại, ngành
ngân hàng Trung Quốc bắt đầu có ý thức tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Các
NHTM Trung Quc đã phát triển các chiến lược mở rộng khu vực đgiành
được ưu thế quy mô và ưu thế phạm vi, giành được hiệu quả quy mô kinh tế và
hiệu quả lợi ích kinh tế, đặc biệt là đối với bốn NHTM QD quy mô tài sản
thực lực vốn lớn mạnh. Trong chiến lược mở rộng khu vực, các NHTM
Trung Quốc chú trọng:
- Ưu tiên các trung tâm tiền tệ quốc tế. Thành lập các chi nhánh
ngân hàng các trung tâm tiền tệ nổi tiếng trên thế giới như Luân Đôn, New
York, Tokyo, Hồng Kông, Xingapo, Frăng-phuốc, Berlin, Barhama v.v...,
thuận lợi cho sự trao đổi nghiệp vụ với các cơ quan tiền tệ của các nước và khu
vực khác, mở rộng phạm vi phát triển nghiệp vụ; ngoài ra còn có thể thu được
nhiều thông tin hơn về phương diện quản lý và nghiệp vụ tiền tệ quốc tế.
- Ưu tiên các nước hoặc khu vựclượng nghiệp vụ lớn. Ví dụ, Mỹ
mt trong những đối tác thương mại đầu tư lớn nhất của Trung Quốc,
51 (loss) với các mức dự phòng khác nhau cho mỗi loại: từ 1% cho nợ bình thường đến 50% cho nợ nghi ngờ và 100% cho loại nợ coi như mất. Phương pháp này tương đối khách quan, nó có thể kịp thời phản ánh tài sản chân thực của doanh nghiệp tiền tệ, có lợi cho việc chủ động phòng ngừa rủi ro cho vay. Nó được thí điểm đầu tiên ở tỉnh Quảng Đông sau đó mở rộng thực thi trên toàn quốc. 4. Về cơ cấu lại hoạt động của ngân hàng Các NHTM Trung Quốc đã đẩy mạnh các chiến lược kinh doanh đa năng, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, phát triển các nghiệp vụ truyền thống bên cạnh đó là đẩy mạnh phát triển các nghiệp vụ mới nhằm mang lại nhiều lợi nhuận, tăng cường khả năng cạnh tranh và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng như nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, các nghiệp vụ trung gian… Bên cạnh đó, từ năm 90 trở lại đây, cùng với việc chuyển đổi ngành ngân hàng Trung Quốc và sự phát triển sâu sắc của mở cửa đối ngoại, ngành ngân hàng Trung Quốc bắt đầu có ý thức tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Các NHTM Trung Quốc đã phát triển các chiến lược mở rộng khu vực để giành được ưu thế quy mô và ưu thế phạm vi, giành được hiệu quả quy mô kinh tế và hiệu quả lợi ích kinh tế, đặc biệt là đối với bốn NHTM QD có quy mô tài sản và thực lực vốn lớn mạnh. Trong chiến lược mở rộng khu vực, các NHTM Trung Quốc chú trọng: - Ưu tiên các trung tâm tiền tệ quốc tế. Thành lập các chi nhánh ngân hàng ở các trung tâm tiền tệ nổi tiếng trên thế giới như Luân Đôn, New York, Tokyo, Hồng Kông, Xingapo, Frăng-phuốc, Berlin, Barhama v.v..., thuận lợi cho sự trao đổi nghiệp vụ với các cơ quan tiền tệ của các nước và khu vực khác, mở rộng phạm vi phát triển nghiệp vụ; ngoài ra còn có thể thu được nhiều thông tin hơn về phương diện quản lý và nghiệp vụ tiền tệ quốc tế. - Ưu tiên các nước hoặc khu vực có lượng nghiệp vụ lớn. Ví dụ, Mỹ là một trong những đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của Trung Quốc,
52
hơn nữa, tiền vốn bằng ngoại tệ của Trung Quốc chủ yếu là bằng đồng đôla
Mỹ. Do đó, việc thành lập chi nhánh tại Mỹ là một sự lựa chọn sáng suốt đối
với việc quản thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và tiền vốn ngoại tệ của
Trung Quốc. Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Hồng Kông và nội địa rất
rộng lớn, hơn nữa, việc buôn bán giữa Trung Quốc với Mỹ cũng như các nước
khác đều phải thông qua Hồng Kông. Do đó, việc thiết lập chi nhánh ngân
hàng ở Hồng Kông càng quan trọng hơn ở các nơi khác.
- Ưu tiên khu vực Hoa Kiều tập trung sinh sống. New York, San
Francisco của Mỹ, Vancouver, Toronto của Cananda đều là những nơi tập
trung sinh sống của Hoa kiều, thành lp các chi nhánh ngân hàng những khu
vực này sẽ dễ dàng hơn cho việc mở cửa thị trường.
Nói tóm lại, căn cứ vào yêu cầu phát triển ưu thế khu vực và tình
hình thực tế của Trung Quốc, Bắc Mỹ, các nước và khu vực có nền kinh tế thị
trường mới phục hồi ở châu Á - Thái Bình Dương, khu vực Tây Âu, các nước
Mla tinh v.v... đều thể trở thành trọng điểm phát triển quốc tế hoá ngân
hàng Trung Quốc. Nhưng đối với hầu hết các nước Đông Âu và Cộng đồng
các quốc gia độc lập SNG đang trong quá trình chuyển đôi cũng như các
nước nền chính trị không ổn định như phần lớn khu vực Trung Đông, cho
dù chế độ quản tiền tệ không nghiêm ngặt nhưng rủi ro về chính trị lại q
lớn, tiến vào thị trường các nước này cần hết sức thận trọng.
Ngoài ra, mt kinh nghiệm quý báu của Trung Quốc trong việc thực
hiện tự do hoá lãi suất ngân hàng, đặc biệt là trong việc tăng nguồn vốn trung
và dài hạn trong tổng số vốn huy động của hệ thống ngân hàng nhằm tăng sự
chủ động của các ngân hàng trong vic sử dụng vốn. Lãi suất huy động của các
nguồn lực tài chính ngắn hạn thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động các
nguồn lực tài chính i hạn, lãi suất không kỳ hạn sau khi trừ đi lạm phát và
thuế tiền gửi hầu như bằng 0 (xem bảng dưới)
52 hơn nữa, tiền vốn bằng ngoại tệ của Trung Quốc chủ yếu là bằng đồng đôla Mỹ. Do đó, việc thành lập chi nhánh tại Mỹ là một sự lựa chọn sáng suốt đối với việc quản lý thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và tiền vốn ngoại tệ của Trung Quốc. Mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Hồng Kông và nội địa rất rộng lớn, hơn nữa, việc buôn bán giữa Trung Quốc với Mỹ cũng như các nước khác đều phải thông qua Hồng Kông. Do đó, việc thiết lập chi nhánh ngân hàng ở Hồng Kông càng quan trọng hơn ở các nơi khác. - Ưu tiên khu vực Hoa Kiều tập trung sinh sống. New York, San Francisco của Mỹ, Vancouver, Toronto của Cananda đều là những nơi tập trung sinh sống của Hoa kiều, thành lập các chi nhánh ngân hàng ở những khu vực này sẽ dễ dàng hơn cho việc mở cửa thị trường. Nói tóm lại, căn cứ vào yêu cầu phát triển ưu thế khu vực và tình hình thực tế của Trung Quốc, Bắc Mỹ, các nước và khu vực có nền kinh tế thị trường mới phục hồi ở châu Á - Thái Bình Dương, khu vực Tây Âu, các nước Mỹ la tinh v.v... đều có thể trở thành trọng điểm phát triển quốc tế hoá ngân hàng Trung Quốc. Nhưng đối với hầu hết các nước Đông Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG đang ở trong quá trình chuyển đôi cũng như các nước có nền chính trị không ổn định như phần lớn khu vực Trung Đông, cho dù chế độ quản lý tiền tệ không nghiêm ngặt nhưng rủi ro về chính trị lại quá lớn, tiến vào thị trường các nước này cần hết sức thận trọng. Ngoài ra, một kinh nghiệm quý báu của Trung Quốc trong việc thực hiện tự do hoá lãi suất ngân hàng, đặc biệt là trong việc tăng nguồn vốn trung và dài hạn trong tổng số vốn huy động của hệ thống ngân hàng nhằm tăng sự chủ động của các ngân hàng trong việc sử dụng vốn. Lãi suất huy động của các nguồn lực tài chính ngắn hạn thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động các nguồn lực tài chính dài hạn, lãi suất không kỳ hạn sau khi trừ đi lạm phát và thuế tiền gửi hầu như bằng 0 (xem bảng dưới)
53
Bảng 4: Diễn biến lãi suất tiền gửi của Trung Quốc giai đoạn 1996-
2002
1/5/96
23/8/96
23/10/97
25/3/98
1/7/98
7/12/98
1/6/99
21/2/02
Không k
hạn
2,79
1,98
1,71
1,71
1,44
1,44
0,99
0,74
1 năm
9,18
7,47
5,67
5,22
4,77
3,78
2,25
1,98
5 năm
12,06
9,00
6,66
6,66
5,22
4,50
2,88
2,79
Lạm phát
9,32
9,32
2,8
-2,6
-2,6
-2,6
-2,9
0,7
Nguồn: Tạp chí tiền tệ Trung Quốc số 4/2002
23
S liệu trên cho thấy, thông qua chính sách lãi suất tiền gửi, Trung
Quốc đang khuyến khích người dân gửi tiền dài hạn. Kết quả trong 3 m
lại đây, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của người dân so với tổng tiền gửi tiết
kiệm của dân mà Trung Quốc huy động là khoảng 30%.
Bên cạnh đó, đ hỗ trợ cho tiến trình hội nhập của hệ thống ngân
hàng, Trung quốc đã tiến hành tự do hoá lãi suất tiền gửi ngoại tệ, từng bước
điều chỉnh lãi suất theo sự biến động lãi suất thế giới. Điều này sẽ đặt các ngân
hàng trong nước ngang hàng với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Trung Quc. Trước đây, các ngân hàng Trung Quốc buộc phải trả lãi suất tiền
gửi ngoại tệ theo mức do Chính phủ định ra, trong khi các ngân hàng nước
ngoài lại ấn định lãi suất theo giá thị trường quốc tế. Do vậy, việc cho phép tự
do hoá lãi suất tiền gửi ngoại tệ sẽ giúp các ngân hàng trong nước tăng sức
cạnh tranh so với các ngân hàng nước ngoài.
Tóm lại, trong xu hướng tự do và m cửa, Trung Quốc đang nỗ lực
cải cách, hiện đại hoá công nghệ, tăng cường mở rộng, hợp tác để nhanh chóng
đưa hệ thống ngân hàng thương mại nhanh chóng phát triển và hi nhập quốc
tế.
23
Theo Tp chí Tài chính Tháng 7/2003
53 Bảng 4: Diễn biến lãi suất tiền gửi của Trung Quốc giai đoạn 1996- 2002 1/5/96 23/8/96 23/10/97 25/3/98 1/7/98 7/12/98 1/6/99 21/2/02 Không kỳ hạn 2,79 1,98 1,71 1,71 1,44 1,44 0,99 0,74 1 năm 9,18 7,47 5,67 5,22 4,77 3,78 2,25 1,98 5 năm 12,06 9,00 6,66 6,66 5,22 4,50 2,88 2,79 Lạm phát 9,32 9,32 2,8 -2,6 -2,6 -2,6 -2,9 0,7 Nguồn: Tạp chí tiền tệ Trung Quốc số 4/2002 23 Số liệu trên cho thấy, thông qua chính sách lãi suất tiền gửi, Trung Quốc đang khuyến khích người dân gửi tiền dài hạn. Kết quả là trong 3 năm lại đây, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của người dân so với tổng tiền gửi tiết kiệm của dân mà Trung Quốc huy động là khoảng 30%. Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho tiến trình hội nhập của hệ thống ngân hàng, Trung quốc đã tiến hành tự do hoá lãi suất tiền gửi ngoại tệ, từng bước điều chỉnh lãi suất theo sự biến động lãi suất thế giới. Điều này sẽ đặt các ngân hàng trong nước ngang hàng với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc. Trước đây, các ngân hàng Trung Quốc buộc phải trả lãi suất tiền gửi ngoại tệ theo mức do Chính phủ định ra, trong khi các ngân hàng nước ngoài lại ấn định lãi suất theo giá thị trường quốc tế. Do vậy, việc cho phép tự do hoá lãi suất tiền gửi ngoại tệ sẽ giúp các ngân hàng trong nước tăng sức cạnh tranh so với các ngân hàng nước ngoài. Tóm lại, trong xu hướng tự do và mở cửa, Trung Quốc đang nỗ lực cải cách, hiện đại hoá công nghệ, tăng cường mở rộng, hợp tác để nhanh chóng đưa hệ thống ngân hàng thương mại nhanh chóng phát triển và hội nhập quốc tế. 23 Theo Tạp chí Tài chính Tháng 7/2003
54
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG NHTM VN HIỆN NAY
Trong gần 15 năm đổi mới kể từ năm 1988, hệ thống ngân hàng Vit
Nam đã có những biến đổi cơ bản. Một hệ thống ngân hàng hai cấp, tách Ngân
hàng Nnước (NHNN) ra khỏi các NHTM với sự tham gia của nhiều thành
phần đã được hình thành. Vthực chất, sự thay đổi về bộ mặt bộ máy ngân
hàng như vậy đáp ứng yêu cầu tất yếu của quá trình chuyển nền kinh tế sang
cơ chế thị trường: phân biệt rõ ràng chức năng của NHNN và NHTM, bảo đảm
tính độc lập của NHTM đối với NHNN trong hoạt động kinh doanh. Về
phương diện bộ máy, việc phân định rõ chức năng kinh doanh cho các NHTM
còn một tín hiệu chính thức và giá trpháp vững chắc để các NHTM
CP ra đời và để các NHTM nước ngoài thiếp lập chi nhánh văn phòng đại
diện ở Việt Nam. Để khẳng định về mặt pháp lý sự thay đổi này, Quốc hội đã
thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng vào tháng
12/1997.
Đến nay, hệ thống NHTM VN bao gồm:
- NHTM Nhà nước 5 ngân hàng: bao gồm Ngân hàng Công
thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu
Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương Ngân hàng phát triển N đồng
bằng sông Cửu Long.
54 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG NHTM VN HIỆN NAY Trong gần 15 năm đổi mới kể từ năm 1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những biến đổi cơ bản. Một hệ thống ngân hàng hai cấp, tách Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ra khỏi các NHTM với sự tham gia của nhiều thành phần đã được hình thành. Về thực chất, sự thay đổi về bộ mặt bộ máy ngân hàng như vậy đáp ứng yêu cầu tất yếu của quá trình chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường: phân biệt rõ ràng chức năng của NHNN và NHTM, bảo đảm tính độc lập của NHTM đối với NHNN trong hoạt động kinh doanh. Về phương diện bộ máy, việc phân định rõ chức năng kinh doanh cho các NHTM còn là một tín hiệu chính thức và có giá trị pháp lý vững chắc để các NHTM CP ra đời và để các NHTM nước ngoài thiếp lập chi nhánh và văn phòng đại diện ở Việt Nam. Để khẳng định về mặt pháp lý sự thay đổi này, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng vào tháng 12/1997. Đến nay, hệ thống NHTM VN bao gồm: - NHTM Nhà nước có 5 ngân hàng: bao gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long.
55
- NHTM CP bao gồm 23 NHTM CP đô thị với 105 chi nhánh cấp I
và 14 NHTM CP nông thôn với 27 chi nhánh
- Ngân hàng liên doanh có 4 ngân hàng với 7 chi nhánh
- Ngân hàng nước ngoài gm 26 chi nhánh và 40 Văn phòng đại diện
tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
Nhìn tổng thể, ở Việt Nam có một hệ thống ngân hàng với đầy đ
các thành phần kinh tế với một mạng lưới rộng lớn, phân ổ ở các tỉnh và thành
phố, đủ năng lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển nền kinh tế.
II. HIỆN TRẠNG CỦA CÁC NHTM VN TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
1. Những thành tựu, kết quả đạt được
Trong gần 15 năm qua của công cuộc đổi mới hoạt động ngân hàng,
dưới tác động của cạnh tranh hợp tác, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về loại hình sở hữu và mô hình t chức,
mrộng nhanh chóng về quy mô, lĩnh vực hoạt động. Các NHTM Việt Nam
hiện đang chiếm lĩnh phần lớn thị trường tài chính trong nước. Theo s liệu
thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến thời điểm 31/12/2002, các NHTM
Việt Nam chiếm thị phần trong huy động vốn 89,3%, trong đó các NHTM
QD chiếm 76%, các NHTM CP là 11,5%, ngân hàng liên doanh 3,4% và còn
lại là chi nhánh ngân hàng nước ngoài; vthị phần trong đầu tín dụng các
NHTM Việt Nam là 89,4%, trong đó NHTM QD chiếm 75%.
24
Theo B kế hoạch đầu tư, tổng nguồn vốn huy động của các
NHTM trong cnước 11 tháng năm 2003 tăng 21% so với 31/12/2002. Trong
đó, tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng 31,2%, bằng ngoại tệ tăng 0,2%. Riêng
trong tháng 11 năm 2003, tổng nguồn vốn huy động ng 1,6% trong đó tiền
24
Tp chí Ngân hàng S 8/2003
55 - NHTM CP bao gồm 23 NHTM CP đô thị với 105 chi nhánh cấp I và 14 NHTM CP nông thôn với 27 chi nhánh - Ngân hàng liên doanh có 4 ngân hàng với 7 chi nhánh - Ngân hàng nước ngoài gồm 26 chi nhánh và 40 Văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam Nhìn tổng thể, ở Việt Nam có một hệ thống ngân hàng với đầy đủ các thành phần kinh tế với một mạng lưới rộng lớn, phân ổ ở các tỉnh và thành phố, đủ năng lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển nền kinh tế. II. HIỆN TRẠNG CỦA CÁC NHTM VN TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY 1. Những thành tựu, kết quả đạt được Trong gần 15 năm qua của công cuộc đổi mới hoạt động ngân hàng, dưới tác động của cạnh tranh và hợp tác, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về loại hình sở hữu và mô hình tổ chức, mở rộng nhanh chóng về quy mô, lĩnh vực hoạt động. Các NHTM Việt Nam hiện đang chiếm lĩnh phần lớn thị trường tài chính trong nước. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến thời điểm 31/12/2002, các NHTM Việt Nam chiếm thị phần trong huy động vốn là 89,3%, trong đó các NHTM QD chiếm 76%, các NHTM CP là 11,5%, ngân hàng liên doanh 3,4% và còn lại là chi nhánh ngân hàng nước ngoài; về thị phần trong đầu tư tín dụng các NHTM Việt Nam là 89,4%, trong đó NHTM QD chiếm 75%. 24 Theo Bộ kế hoạch và đầu tư, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM trong cả nước 11 tháng năm 2003 tăng 21% so với 31/12/2002. Trong đó, tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng 31,2%, bằng ngoại tệ tăng 0,2%. Riêng trong tháng 11 năm 2003, tổng nguồn vốn huy động tăng 1,6% trong đó tiền 24 Tạp chí Ngân hàng Số 8/2003
56
gửi Việt Nam đồng tăng 2,2%, bằng ngoại tệ tăng 2,2%
25
. Dưới đây là một số
kết quả đạt được của hệ thống NHTM Việt Nam:
(1) Đối với các NHTM QD, vốn điều lệ đã được tăng lên đáng kể do
nguồn cấp bổ sung của chính phủ theo đán cấu lại tài chính các NHTM.
Cuối năm 2002, Bộ Tài chính đã cấp bổ sung vốn điều lệ đợt 1 vào cuối năm
2002 cho 5 NHTM QD với tổng số tiền là 4900 t đồng
26
. Trong tháng
11/2003, Nhà nước đã cấp thêm vốn điều lệ đợt 3 cho các NHTM QD. Cụ thể,
Ngân hàng NN&PTNT là 700 tỷ đồng, hai Ngân hàng Công Thương và Ngân
hàng Ngoại Thương mỗi ngân hàng 400 tỷ đồng
27
.
Bên cạnh đó, việc giải tocác khoản nợ xấu, làm trong sạch tình
hình tài chính của các NHTM QD đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tính
đến nay, số nợ tồn đọng các NHTM QD đã được xử lý bản, khoảng trên
10.000 tđồng, đạt khoảng gần 50% tổng số nợ đọng cần xử
28
. Các công ty
Quản lý nợ và Khai thác tài sản hoạt động có hiệu quả, nhiều tài sản được tiến
hành phát mại, bán đấu giá, cho thuê. Tổng số các khoản vốn thu hồi qua khâu
nghiệp vụ này được gần 800 tỷ đồng
29
. thnêu ra msố thành tựu cụ th
của một số NHTM QD như sau: Ngân hàng NN&PTNT là đơn vị lớn nhất
Việt Nam với số nguồn vốn trên 110.000 t đồng, tốc độ tăng trưởng đạt từ
37%/năm đến 39%/năm, 1656 chi nhánh trải rộng trên phạm vi toàn quốc,
quan h đại lý với 784 ngân hàng 90 nước trên thế giới, đã được tạp chí
ASIA WEEK xếp thứ 335 trong số 500 ngân hàng lớn nhất Châu Á
30
; Ngân
hàng Công thươngViệt Nam có nguồn vốn huy động dồi dào, tăng trưởng trên
23% so với năm 2000, nguồn vốn tăng trưởng liên tục trong những năm qua,
tốc độ tăng bình quân 40%/ năm, từ 497 tỷ đồng năm 1998 lên 71.477 tỷ đồng
năm 2002 (tăng 144 lần), một mạng ới gồm 2 Sở giao dịch, 114 chi
25
Theo mc Tin tc ca trang Web Ngân hàng Ngoi Thương
26
Tp chí Tài chính Tháng6/2003
27
Theo mc Tin tc ca trang Web Ngân hàng Ngoi Thương
28
Tp chí Th trường Tài chính tin t S 3/2003
29
Tp chí Tài chính Tháng 1+2/2003
30
Tp chí Ngân hàng S 9/2003
56 gửi Việt Nam đồng tăng 2,2%, bằng ngoại tệ tăng 2,2% 25 . Dưới đây là một số kết quả đạt được của hệ thống NHTM Việt Nam: (1) Đối với các NHTM QD, vốn điều lệ đã được tăng lên đáng kể do nguồn cấp bổ sung của chính phủ theo đề án cơ cấu lại tài chính các NHTM. Cuối năm 2002, Bộ Tài chính đã cấp bổ sung vốn điều lệ đợt 1 vào cuối năm 2002 cho 5 NHTM QD với tổng số tiền là 4900 tỷ đồng 26 . Trong tháng 11/2003, Nhà nước đã cấp thêm vốn điều lệ đợt 3 cho các NHTM QD. Cụ thể, Ngân hàng NN&PTNT là 700 tỷ đồng, hai Ngân hàng Công Thương và Ngân hàng Ngoại Thương mỗi ngân hàng 400 tỷ đồng 27 . Bên cạnh đó, việc giải toả các khoản nợ xấu, làm trong sạch tình hình tài chính của các NHTM QD đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tính đến nay, số nợ tồn đọng ở các NHTM QD đã được xử lý cơ bản, khoảng trên 10.000 tỷ đồng, đạt khoảng gần 50% tổng số nợ đọng cần xử lý 28 . Các công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản hoạt động có hiệu quả, nhiều tài sản được tiến hành phát mại, bán đấu giá, cho thuê. Tổng số các khoản vốn thu hồi qua khâu nghiệp vụ này được gần 800 tỷ đồng 29 . Có thể nêu ra mộ số thành tựu cụ thể của một số NHTM QD như sau: Ngân hàng NN&PTNT là đơn vị lớn nhất Việt Nam với số nguồn vốn trên 110.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt từ 37%/năm đến 39%/năm, có 1656 chi nhánh trải rộng trên phạm vi toàn quốc, quan hệ đại lý với 784 ngân hàng ở 90 nước trên thế giới, đã được tạp chí ASIA WEEK xếp thứ 335 trong số 500 ngân hàng lớn nhất Châu Á 30 ; Ngân hàng Công thươngViệt Nam có nguồn vốn huy động dồi dào, tăng trưởng trên 23% so với năm 2000, nguồn vốn tăng trưởng liên tục trong những năm qua, tốc độ tăng bình quân 40%/ năm, từ 497 tỷ đồng năm 1998 lên 71.477 tỷ đồng năm 2002 (tăng 144 lần), có một mạng lưới gồm 2 Sở giao dịch, 114 chi 25 Theo mục Tin tức của trang Web Ngân hàng Ngoại Thương 26 Tạp chí Tài chính Tháng6/2003 27 Theo mục Tin tức của trang Web Ngân hàng Ngoại Thương 28 Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ Số 3/2003 29 Tạp chí Tài chính Tháng 1+2/2003 30 Tạp chí Ngân hàng Số 9/2003
57
nhánh, 139 phòng giao dịch và 383 qutiết kiệm hai đơn vị sự nghiệp là
Trung tâm Đào tạo và Trung tâm Công nghệ thông tin, có mạng lưới đại lý với
623 ngân hàng trên khắp thế giới
31
; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
nguồn vốn tính tới thời điểm cuối năm 2002 là 82.000 t đồng, tăng gấp 5,2
lần so với cuối năm 1991, trở thành một hệ thống phát triển theo hướng hình
thành tập đoàn kinh tế với trên 40 đơn vị thành viên trong ngoài nước,
được tổ chức JP Morgan và Tạp chí The Banker bình chọn là “Ngân hàng
chất lượng thanh toán tốt nhất”
32
.
(2) Đối với các NHTM CP, vốn điều lệ của cả hệ thống cuối năm
1999 là 2.171 tđồng, năm 2001 tăng lên là 2.664 tđồng, năm 2002 tăng lên
là 3.026 tỷ đồng, khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư vào hệ thống NHTM
CP. Vốn huy động của toàn hthống cuối năm 2002 tăng gấp 2,6 lần so với
năm 1999, dư nợ vay của các thành phn kinh tế tại các NHTM CP là trên
28.000 tđồng gấp hơn 2,3 lần so với năm 1999, nợ quá hạn năm 2002
giảm xuống còn 6,4% so vi năm 1999 là 16,7%. Kết quả kinh doanh được cải
thiện đáng kể, nếu lợi nhuận năm 1999 của các NHTM CP là 142 tđồng thì
hết năm 2002, các NHTM CP đã lợi nhuận 558 tỷ đồng (gấp 4 lần so với
thời kỳ trước khi chấn chỉnh, củng cố và sắp xếp lại). Kinh doanh của các
NHTM CP cũng đa năng hơn rất nhiều. Ngoài việc mở chi nhánh để mở rộng
địa bàn hoạt động, đã 2 NHTM CP thành lập công ty chứng khoán, 3
NHTM CP thành lập công ty quản lý n và khai thác tài sản, 1 NHTM CP
thành lập công ty dịch vụ kiều hối. Từ năm 1999 về trước chỉ có 1 NHTM CP
phát hành thanh toán thđều là th quốc tế Visa Card và Master Card,
nhưng đến hết năm 2002 đã có thêm 2 ngân hàng phát hành thnội địa và th
ATM. Nhiều NHTM CP tham gia hệ thống thanh toán SWIFT và thanh toán
liên hàng điện tử… Như vậy việc chấn chỉnh, củng cố và sắp xếp lại các
NHTM CP đã đem lại những kết quả đáng kể, khẳng định sự tồn tại khách
31
Website ca Ngân hàng Công Thương
32
Tp chí Ngân hàng S chuyên đề 2003
57 nhánh, 139 phòng giao dịch và 383 quỹ tiết kiệm và hai đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Đào tạo và Trung tâm Công nghệ thông tin, có mạng lưới đại lý với 623 ngân hàng trên khắp thế giới 31 ; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có nguồn vốn tính tới thời điểm cuối năm 2002 là 82.000 tỷ đồng, tăng gấp 5,2 lần so với cuối năm 1991, trở thành một hệ thống phát triển theo hướng hình thành tập đoàn kinh tế với trên 40 đơn vị thành viên ở trong và ngoài nước, được tổ chức JP Morgan và Tạp chí The Banker bình chọn là “Ngân hàng có chất lượng thanh toán tốt nhất” 32 . (2) Đối với các NHTM CP, vốn điều lệ của cả hệ thống cuối năm 1999 là 2.171 tỷ đồng, năm 2001 tăng lên là 2.664 tỷ đồng, năm 2002 tăng lên là 3.026 tỷ đồng, khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư vào hệ thống NHTM CP. Vốn huy động của toàn hệ thống cuối năm 2002 tăng gấp 2,6 lần so với năm 1999, dư nợ vay của các thành phần kinh tế tại các NHTM CP là trên 28.000 tỷ đồng gấp hơn 2,3 lần so với năm 1999, dư nợ quá hạn năm 2002 giảm xuống còn 6,4% so với năm 1999 là 16,7%. Kết quả kinh doanh được cải thiện đáng kể, nếu lợi nhuận năm 1999 của các NHTM CP là 142 tỷ đồng thì hết năm 2002, các NHTM CP đã có lợi nhuận 558 tỷ đồng (gấp 4 lần so với thời kỳ trước khi chấn chỉnh, củng cố và sắp xếp lại). Kinh doanh của các NHTM CP cũng đa năng hơn rất nhiều. Ngoài việc mở chi nhánh để mở rộng địa bàn hoạt động, đã có 2 NHTM CP thành lập công ty chứng khoán, 3 NHTM CP thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, 1 NHTM CP thành lập công ty dịch vụ kiều hối. Từ năm 1999 về trước chỉ có 1 NHTM CP phát hành và thanh toán thẻ và đều là thẻ quốc tế Visa Card và Master Card, nhưng đến hết năm 2002 đã có thêm 2 ngân hàng phát hành thẻ nội địa và thẻ ATM. Nhiều NHTM CP tham gia hệ thống thanh toán SWIFT và thanh toán liên hàng điện tử… Như vậy việc chấn chỉnh, củng cố và sắp xếp lại các NHTM CP đã đem lại những kết quả đáng kể, khẳng định sự tồn tại khách 31 Website của Ngân hàng Công Thương 32 Tạp chí Ngân hàng Số chuyên đề 2003
58
quan của hệ thống NHTM CP trong hệ thống tài chính ở Việt Nam
33
. Một số ví
dcụ thể về stăng trưởng và phát triển của một số NHTM CP lớn Việt
Nam xem phần phụ lục (Bảng 1, 2, 3)
(3) Đối với các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, việc thu hút các ngân hàng nước ngoài, các tchức tài chính, tín
dụng quốc tế đến Việt Nam đã tạo điều kiện cho thị trường tài chính Việt Nam
phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian qua, hoạt động của ngân hàng liên doanh
cũng như ngân hàng nước ngoài đều phát triển nhanh về quy mô, mạnh lưới
hoat động. Bên cạnh đó đã đa dạng hoá, hoàn thiện chất lượng và nâng cao loại
hình sản phẩm dịch vụ tài chính- ngân hàng. Theo đánh giá chung về hoạt
động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh thì hot động
của các ngân hàng có vốn nước ngoài này phát triển ổn định và an toàn tại Việt
Nam trong một bối cảnh thị trường tài chính quốc tế đầy biến động. So với
cuối năm 2001, tổng tài sản của các ngân hàng này tăng 15,5%, huy động vốn
tăng 10%, dư nợ cho vay tăng 6,7%, lợi nhuận tăng 2,2%. Trong đó, các ngân
hàng liên doanh chiếm tỷ trọng trong thị phần huy động vốn là 3,4%, cho vay
vốn là 3,4%, kinh doanh ngoại tệ 6,3%. Chất lượng tín dụng đã dần từng bước
được nâng cao thông qua việc xử lý tài sản đảm bảo, nợ quá hạn tính đến cuối
năm 2002 giảm 41% so với cùng knăm 2001. Tính đến cuối năm 2002, tổng
tài sản có tăng 24,2%, huy động vốn tăng 37,7% so với năm 2001. Đối với các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì đến đầu năm 2002, các ngân hàng lớn trên
thế giới đã thiết lập chi nhánh, thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng hin
đại nước ta như: Citi Bank Bank of America (của Mỹ), Deutsche Bank
(của Đức), ABN- AMRO Bank ING Bank (Hà Lan), Credit Lyonniars
BNP (Pháp), Fuji Bank Bank of Tokyo & Mitshubishi (Nhật), ANZ…Về
hoạt động của các chi nhánh thì nhìn tổng quát so với thời điểm 31/12/2001,
tổng tài sản đến cuối năm 2002 tăng 11%, huy động vốn từ khách hàng tăng
5,9%, tlệ nợ quá hạn chỉ có 0,43% tổng dư nợ, giảm 0,6% so với năm trước.
33
Tp chí Ngân hàng S 7/2003
58 quan của hệ thống NHTM CP trong hệ thống tài chính ở Việt Nam 33 . Một số ví dụ cụ thể về sự tăng trưởng và phát triển của một số NHTM CP lớn ở Việt Nam xem phần phụ lục (Bảng 1, 2, 3) (3) Đối với các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, việc thu hút các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế đến Việt Nam đã tạo điều kiện cho thị trường tài chính Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian qua, hoạt động của ngân hàng liên doanh cũng như ngân hàng nước ngoài đều phát triển nhanh về quy mô, mạnh lưới hoat động. Bên cạnh đó đã đa dạng hoá, hoàn thiện chất lượng và nâng cao loại hình sản phẩm dịch vụ tài chính- ngân hàng. Theo đánh giá chung về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh thì hoạt động của các ngân hàng có vốn nước ngoài này phát triển ổn định và an toàn tại Việt Nam trong một bối cảnh thị trường tài chính quốc tế đầy biến động. So với cuối năm 2001, tổng tài sản của các ngân hàng này tăng 15,5%, huy động vốn tăng 10%, dư nợ cho vay tăng 6,7%, lợi nhuận tăng 2,2%. Trong đó, các ngân hàng liên doanh chiếm tỷ trọng trong thị phần huy động vốn là 3,4%, cho vay vốn là 3,4%, kinh doanh ngoại tệ 6,3%. Chất lượng tín dụng đã dần từng bước được nâng cao thông qua việc xử lý tài sản đảm bảo, nợ quá hạn tính đến cuối năm 2002 giảm 41% so với cùng kỳ năm 2001. Tính đến cuối năm 2002, tổng tài sản có tăng 24,2%, huy động vốn tăng 37,7% so với năm 2001. Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì đến đầu năm 2002, các ngân hàng lớn trên thế giới đã thiết lập chi nhánh, thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại ở nước ta như: Citi Bank và Bank of America (của Mỹ), Deutsche Bank (của Đức), ABN- AMRO Bank và ING Bank (Hà Lan), Credit Lyonniars và BNP (Pháp), Fuji Bank và Bank of Tokyo & Mitshubishi (Nhật), ANZ…Về hoạt động của các chi nhánh thì nhìn tổng quát so với thời điểm 31/12/2001, tổng tài sản đến cuối năm 2002 tăng 11%, huy động vốn từ khách hàng tăng 5,9%, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ có 0,43% tổng dư nợ, giảm 0,6% so với năm trước. 33 Tạp chí Ngân hàng Số 7/2003
59
Những kết quả nói trên chứng tỏ các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đã góp
phần tích cực vào hoạt động ổn định, có hiệu quả của hệ thống ngân hàng
34
.
Trong quá trình hội nhập, Quy chế về hoạt động của ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt Nam (Ngh định 189/HĐBT ngày
15/6/1991) là văn bản pháp lý đầu tiên thể hiện sự mở cửa, hội nhập quốc tế về
lĩnh vực ngân hàng Việt Nam, đã tạo điều kiện cho các NHTM Việt Nam hội
nhập với quốc tế. Đặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 07- NQ- TW của Bộ chính
tr ngày 27/11/2001 vhội nhập kinh tế quốc tế, ngành ngân hàng Việt Nam
đã nhanh chóng triển khai các công việc cụ thể tích cực tham gia vào quá trình
mcửa và hội nhập quốc tế. c NHTM Việt Nam đã cơ hội tiếp cận thị
trường toàn cầu rộng lớn, tăng khả năng thu hút vốn, tiếp cận chuyển giao
công nghthông tin hiện đại và nguồn lực tri thức, tăng cường năng lực quản
lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Một ví dnổi bật là vào tháng
10/2002, Công ty tài chính Quốc tế (IFC) thuộc nhóm Ngân hàng Thế Giới
(WB) đã đầu 3 triệu USD
35
vào NHTM CP Sài n Thương tín
(Sacombank) đã giúp Sacombank một mặt tăng quy mô tầm vóc, một mặt tăng
cường năng lực quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế, từng bước tạo uy
tín lòng tin của Sacombank với cộng đồng tài chính quốc tế trên ớc
đường hội nhập. Ngoài ra, th kể đến Ngân hàng KThương Việt Nam
(Techcombank) nhận định hội và thách thức, đã s dụng đồ ma trận
Swot
36
t việc xác định điểm mạnh, điểm yếu của ngân hàng t đó xây
dựng các chiến lược phát triển. Về hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trong
quá trình hội nhập, một thành tựu đáng kể mà các NHTM đạt được, đó là tỷ lệ
thanh toán không ng tiền mặt trên tng phương tiện thanh toán sau nhiều
năm liền duy trì ở mức 60- 65%/năm, năm 2003, tỷ lệ này đã có bước nhảy vọt
lên tới 86%, tăng 21% so với năm 2002. Việc tăng tỷ lệ thanh toán không dùng
tiền mặt có thể coi là tín hiệu đáng mừng và là bước phát triển tất yếu của nền
34
Tp chí Th trường Tài chính tin t 15/4/2003
35
Tp chí Ngân hàng S 4/2003
36
Thi báo Ngân hàng 3/9/2003
59 Những kết quả nói trên chứng tỏ các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào hoạt động ổn định, có hiệu quả của hệ thống ngân hàng 34 . Trong quá trình hội nhập, Quy chế về hoạt động của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt Nam (Nghị định 189/HĐBT ngày 15/6/1991) là văn bản pháp lý đầu tiên thể hiện sự mở cửa, hội nhập quốc tế về lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, đã tạo điều kiện cho các NHTM Việt Nam hội nhập với quốc tế. Đặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 07- NQ- TW của Bộ chính trị ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế, ngành ngân hàng Việt Nam đã nhanh chóng triển khai các công việc cụ thể tích cực tham gia vào quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế. Các NHTM Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu rộng lớn, tăng khả năng thu hút vốn, tiếp cận chuyển giao công nghệ thông tin hiện đại và nguồn lực tri thức, tăng cường năng lực quản lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Một ví dụ nổi bật là vào tháng 10/2002, Công ty tài chính Quốc tế (IFC) thuộc nhóm Ngân hàng Thế Giới (WB) đã đầu tư 3 triệu USD 35 vào NHTM CP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) đã giúp Sacombank một mặt tăng quy mô tầm vóc, một mặt tăng cường năng lực quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế, từng bước tạo uy tín và lòng tin của Sacombank với cộng đồng tài chính quốc tế trên bước đường hội nhập. Ngoài ra, có thể kể đến Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) nhận định cơ hội và thách thức, đã sử dụng sơ đồ ma trận Swot 36 từ việc xác định điểm mạnh, điểm yếu của ngân hàng mà từ đó xây dựng các chiến lược phát triển. Về hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trong quá trình hội nhập, một thành tựu đáng kể mà các NHTM đạt được, đó là tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán sau nhiều năm liền duy trì ở mức 60- 65%/năm, năm 2003, tỷ lệ này đã có bước nhảy vọt lên tới 86%, tăng 21% so với năm 2002. Việc tăng tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt có thể coi là tín hiệu đáng mừng và là bước phát triển tất yếu của nền 34 Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ 15/4/2003 35 Tạp chí Ngân hàng Số 4/2003 36 Thời báo Ngân hàng 3/9/2003