Luận án Tiến sĩ Luật học: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay

4,003
104
167
107
Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương
tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng.
Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng
thể bị hạn chế, song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn nào
đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn
giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình; những quyền tdo này được
bảo vệ vô điều kiện.
Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng
chỉ với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để
bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức hội, hoặc các
quyền và tự do bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến
pháp năm 2013 và Điều 15 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 quy định một
phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi thể dẫn đến đình chỉ hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự,
tài sản của người khác; hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác…
Các khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi
diễn giải và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế.
Pháp luật chưa quy định rõ một số điều kiện khác được nêu trong luật
nhân quyền quốc tế, cụ thể như những hạn chế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra trong luật,
phải liên quan trực tiếp và phù hợp với nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó
đã được xác nhận. Các hạn chế cũng không được áp đặt vì mục đích phân biệt
đối xử, hoặc áp dụng mang tính phân biệt, và những đối tượng đặc biệt, ví dụ
như tù nhân, vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín
ngưỡng trong khả năng cao nhất có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
3.3.2.2. Nguyên nhân
107 Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có thể bị hạn chế, song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình; những quyền tự do này được bảo vệ vô điều kiện. Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng chỉ với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và Điều 15 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 quy định một phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi có thể dẫn đến đình chỉ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác… Các khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi diễn giải và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế. Pháp luật chưa quy định rõ một số điều kiện khác được nêu trong luật nhân quyền quốc tế, cụ thể như những hạn chế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra trong luật, phải liên quan trực tiếp và phù hợp với nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó đã được xác nhận. Các hạn chế cũng không được áp đặt vì mục đích phân biệt đối xử, hoặc áp dụng mang tính phân biệt, và những đối tượng đặc biệt, ví dụ như tù nhân, vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín ngưỡng trong khả năng cao nhất có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. 3.3.2.2. Nguyên nhân
108
- Việc quán triệt, thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước liên quan
đến tôn giáo, tín ngưỡng còn thiếu sót, lệch lạc. Phần lớn các văn kiện của
Đảng về chủ trương công tác tôn giáo trong tình hình mới đều là tài liệu “Tối
mật” hoặc “Mật”, do đó số cán bộ biết và nắm vững nội dung còn rất ít, hạn
chế tới công tác triển khai và kết quả đạt được.
- Công tác nghiên cứu cơ bản về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và đời
sống của từng tôn giáo nói riêng chưa được chú ý và đầu thỏa đáng; hiểu
biết của các cấp, các ngành về tôn giáo, tín ngưỡng còn hạn chế. Công tác
tổng kết thực tiễn về tôn giáo công tác tôn giáo chưa được đầu tư thỏa
đáng; chủ trương, chính sách về tôn giáo chưa theo kịp tình hình thực tiễn.
- Công tác truyền thông tôn giáo, thông tin tuyên truyền chủ trương,
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước còn yếu; việc đấu tranh trên các mặt
tưởng về tôn giáo vừa yếu lại vừa lúng túng; trong khi c phần tử cực
đoan trong các tôn giáo vẫn tiếp tục sự câu kết trong và ngoài nước, tìm
mọi cách tập hợp lực lượng chống đối, khai thác những hở thiếu sót trong
công tác quản nhà nước về tôn giáo để xuyên tạc tình hình tôn giáo
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta..
- Công tác tôn giáo ngày càng phức tạp, việc lợi dụng vấn đề tôn giáo
vào mục đích chính trị của các thế lực thù địch thông qua các tổ chức phi
chính phủ (NGO) liên quan đến tôn giáo viện trợ tài chính, lôi kéo số chống
đối trong các tôn giáo; trong khi đội ngũ làm công tác tôn giáo trong cả nước
còn yếu, bộ máy làm công tác tôn giáo thiếu ổn định, thiếu cán bộ làm công
tác tôn giáo tại cấp xã, phường, phần lớn chưa được chuyên môn hóa
chính sách đãi ngộ hợp lý; sự phối hợp trao đổi thông tin giữa các ngành,
các cấp chức năng liên quan đến công tác tôn giáo còn mang tính hình thức,
ứng xử với công tác tôn giáo có xu hướng nghiêng về an ninh chính trị và
lúc, có nơi còn bị phân biệt đối xử.
- Một số quy định còn chưa được thể chế trong Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo các văn bản hướng dẫn thi hành dẫn đến việc bảo đảm thực
108 - Việc quán triệt, thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng còn thiếu sót, lệch lạc. Phần lớn các văn kiện của Đảng về chủ trương công tác tôn giáo trong tình hình mới đều là tài liệu “Tối mật” hoặc “Mật”, do đó số cán bộ biết và nắm vững nội dung còn rất ít, hạn chế tới công tác triển khai và kết quả đạt được. - Công tác nghiên cứu cơ bản về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và đời sống của từng tôn giáo nói riêng chưa được chú ý và đầu tư thỏa đáng; hiểu biết của các cấp, các ngành về tôn giáo, tín ngưỡng còn hạn chế. Công tác tổng kết thực tiễn về tôn giáo và công tác tôn giáo chưa được đầu tư thỏa đáng; chủ trương, chính sách về tôn giáo chưa theo kịp tình hình thực tiễn. - Công tác truyền thông tôn giáo, thông tin tuyên truyền chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước còn yếu; việc đấu tranh trên các mặt tư tưởng về tôn giáo vừa yếu lại vừa lúng túng; trong khi các phần tử cực đoan trong các tôn giáo vẫn tiếp tục có sự câu kết trong và ngoài nước, tìm mọi cách tập hợp lực lượng chống đối, khai thác những sơ hở thiếu sót trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo để xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.. - Công tác tôn giáo ngày càng phức tạp, việc lợi dụng vấn đề tôn giáo vào mục đích chính trị của các thế lực thù địch thông qua các tổ chức phi chính phủ (NGO) liên quan đến tôn giáo viện trợ tài chính, lôi kéo số chống đối trong các tôn giáo; trong khi đội ngũ làm công tác tôn giáo trong cả nước còn yếu, bộ máy làm công tác tôn giáo thiếu ổn định, thiếu cán bộ làm công tác tôn giáo tại cấp xã, phường, phần lớn chưa được chuyên môn hóa và có chính sách đãi ngộ hợp lý; sự phối hợp và trao đổi thông tin giữa các ngành, các cấp chức năng liên quan đến công tác tôn giáo còn mang tính hình thức, ứng xử với công tác tôn giáo có xu hướng nghiêng về an ninh chính trị và có lúc, có nơi còn bị phân biệt đối xử. - Một số quy định còn chưa được thể chế trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành dẫn đến việc bảo đảm và thực
109
hiện còn nhiều hạn chế; thiếu chế tài xử lý khi vi phạm nên hạn chế hiệu
quả quản nhà nước đối với tôn giáo; sự bất cập chưa đồng bộ giữa
chính sách, pháp luật về tôn giáo với chính sách, pháp luật đất đai, xây dựng,
tài chính... đã làm khó cho công tác quản nhà nước về tôn giáo (chưa xác
định được tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo sau khi được công nhận nên
hạn chế sự tham gia của tổ chức tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục - y tế, hay
việc quy định đất tôn giáo do nhà nước giao không thu tiền đã loại trừ tổ chức
tôn giáo ra khỏi đối tượng được mua, nhận hiến - tặng quyền sử dụng đất).
- Về luật pháp chưa đồng bộ, còn có lĩnh vực quản lý chưa được cụ thể
hóa bằng các quy định của pháp luật nên khi thực hiện còn lúng túng, tùy tiện,
có nơi quá chặt chẽ, có lúc, có nơi buông lỏng quản lý. Việc triển khai các chủ
trương, chính sách pháp luật về tôn giáo còn chậm và thiếu đồng bộ, tạo kẽ hở
cho các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, vu cáo Nhà nước, gây mất ổn
định an ninh, chính trị, xã hội.
- Một số cấp ủy đảng, chính quyền cán bộ làm công tác tôn giáo
chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn, vận động chức sắc và tín đồ tôn giáo, thiếu
linh hoạt trước những vấn đề nhạy cảm về chính trị nên việc giải quyết các vụ
việc liên quan đến tôn giáo chưa dứt điểm và kém hiệu quả.
- Hoạt động của các tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
được các tôn giáo tăng cường hơn, truyền đạo trái phép còn tiếp diễn, trong
khi an ninh chính trị, đời sống dân trí của nhân dân còn thấp. Việc chia
tách, sát nhập tổ chức giáo hội sở, xây dựng sở thờ tự, nhập tu
thuyên chuyển chức sắc và truyền đạo trái pháp luật đang có sự gia tăng, điển
nh là Đạo Tin Lành phát triển nhanh về tín đồ trên phạm vi rộng cả ở vùng
nông thôn, đô thị, đặc biệt là đối tượng sinh viên các trường Đại học và trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nghệ An
vùng sâu, vùng xa khó ngăn cản.
109 hiện còn nhiều hạn chế; thiếu chế tài xử lý khi có vi phạm nên hạn chế hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo; có sự bất cập và chưa đồng bộ giữa chính sách, pháp luật về tôn giáo với chính sách, pháp luật đất đai, xây dựng, tài chính... đã làm khó cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo (chưa xác định được tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo sau khi được công nhận nên hạn chế sự tham gia của tổ chức tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục - y tế, hay việc quy định đất tôn giáo do nhà nước giao không thu tiền đã loại trừ tổ chức tôn giáo ra khỏi đối tượng được mua, nhận hiến - tặng quyền sử dụng đất). - Về luật pháp chưa đồng bộ, còn có lĩnh vực quản lý chưa được cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật nên khi thực hiện còn lúng túng, tùy tiện, có nơi quá chặt chẽ, có lúc, có nơi buông lỏng quản lý. Việc triển khai các chủ trương, chính sách pháp luật về tôn giáo còn chậm và thiếu đồng bộ, tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, vu cáo Nhà nước, gây mất ổn định an ninh, chính trị, xã hội. - Một số cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ làm công tác tôn giáo chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn, vận động chức sắc và tín đồ tôn giáo, thiếu linh hoạt trước những vấn đề nhạy cảm về chính trị nên việc giải quyết các vụ việc liên quan đến tôn giáo chưa dứt điểm và kém hiệu quả. - Hoạt động của các tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số được các tôn giáo tăng cường hơn, truyền đạo trái phép còn tiếp diễn, trong khi an ninh chính trị, đời sống và dân trí của nhân dân còn thấp. Việc chia tách, sát nhập tổ chức giáo hội cơ sở, xây dựng cơ sở thờ tự, nhập tu và thuyên chuyển chức sắc và truyền đạo trái pháp luật đang có sự gia tăng, điển hình là Đạo Tin Lành phát triển nhanh về tín đồ trên phạm vi rộng cả ở vùng nông thôn, đô thị, đặc biệt là đối tượng sinh viên các trường Đại học và trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nghệ An và ở vùng sâu, vùng xa khó ngăn cản.
110
Tiểu kết chương 3
Chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước Việt Nam đối với tôn
giáo được hình thành, phát triển ngày càng hoàn thiện hơn trong cả một quá
trình. Nhận thức vấn đề tôn giáo, quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta trước và sau thời kỳ đổi mới cũng vậy. Những nghiên cứu về bối
cảnh lịch sử trước đổi mới, trong thời kỳ đổi mới cho phép chúng ta hiểu sâu
hơn những biến chuyển trong nhận thức về các chủ trương, chính sách được
hình thành qua mỗi thời kỳ. Đó cũng cơ sở để chúng ta nhận thức được
chính sách nhất quán, những bước chuyển đổi lớn của chính sách tôn giáo
hiện nay, những thành tựu, những hạn chế những bài học kinh nghiệm bổ
ích trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo, từ đó mà nâng cao hiệu quả
công tác tôn giáo và quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời gian tới.
Nhờ sự minh bạch cởi mở về chủ trương, chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo đông đảo nhân và tổ chức quốc tế đã thừa nhận nhà
nước Việt Nam ngày càng thực hiện và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, kết quả các tôn giáo Việt Nam được sống trong đời sống tâm linh
tín ngưỡng và đời sống xã hội; chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo đều tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng nhà nước, tích cực tham gia thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. Mọi công
dân đều có quyền tự do lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo của mình, các tôn giáo
hoạt động theo pháp luật, đồng thời không làm ảnh hưởng đến đời sống
đoàn kết cộng đồng, đến an ninh quốc gia trật tự hội. Cho nên, ngày
14/11/2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố đưa Việt Nam ra khỏi danh sách
các nước “cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo”.
Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các văn bản
pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo tới toàn thể nhân dân; cần có sự
phối kết hợp giữa nhà nước và nhân dân; đầu tư thỏa đáng cho việc thực hiện
các giải pháp; các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời, nội dung,
110 Tiểu kết chương 3 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo được hình thành, phát triển ngày càng hoàn thiện hơn trong cả một quá trình. Nhận thức vấn đề tôn giáo, quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trước và sau thời kỳ đổi mới cũng vậy. Những nghiên cứu về bối cảnh lịch sử trước đổi mới, trong thời kỳ đổi mới cho phép chúng ta hiểu sâu hơn những biến chuyển trong nhận thức về các chủ trương, chính sách được hình thành qua mỗi thời kỳ. Đó cũng là cơ sở để chúng ta nhận thức được chính sách nhất quán, những bước chuyển đổi lớn của chính sách tôn giáo hiện nay, những thành tựu, những hạn chế và những bài học kinh nghiệm bổ ích trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo, từ đó mà nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo và quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời gian tới. Nhờ sự minh bạch và cởi mở về chủ trương, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà đông đảo cá nhân và tổ chức quốc tế đã thừa nhận nhà nước Việt Nam ngày càng thực hiện và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, kết quả là các tôn giáo ở Việt Nam được sống trong đời sống tâm linh tín ngưỡng và đời sống xã hội; chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, tích cực tham gia thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo của mình, các tôn giáo hoạt động theo pháp luật, đồng thời không làm ảnh hưởng đến đời sống và đoàn kết cộng đồng, đến an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Cho nên, ngày 14/11/2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước “cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo”. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các văn bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo tới toàn thể nhân dân; cần có sự phối kết hợp giữa nhà nước và nhân dân; đầu tư thỏa đáng cho việc thực hiện các giải pháp; các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời, nội dung,
111
hình thức cách thức thực hiện các giải pháp cần được thường xuyên cải
tiến, đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các giải pháp;
động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các giải
pháp; phê phán, xử lý kịp thời các trường hợp không thực hiện…
Cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo một cách toàn diện hơn đầy đủ hơn, góp phần cung
cấp những luận cứ khoa học cho Đảng, nhà nước tiếp tục hoạch định và hoàn
thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trên các lĩnh vực khác nhau; tiếp tục đưa ra những giải pháp chung và những
giải pháp đảm bảo pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
pháp luật Việt Nam hiện nay góp phần cho cơ quan chức năng có những căn
cứ để nâng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo lên thành luật tín ngưỡng, tôn giáo;
đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước,
đấu tranh chống các thế lực lợi dụng tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định
chính trị và phát triển kinh tế, xã hội.
111 hình thức và cách thức thực hiện các giải pháp cần được thường xuyên cải tiến, đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các giải pháp; động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các giải pháp; phê phán, xử lý kịp thời các trường hợp không thực hiện… Cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách toàn diện hơn và đầy đủ hơn, góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng, nhà nước tiếp tục hoạch định và hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên các lĩnh vực khác nhau; tiếp tục đưa ra những giải pháp chung và những giải pháp đảm bảo pháp lý bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay góp phần cho cơ quan chức năng có những căn cứ để nâng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo lên thành luật tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh chống các thế lực lợi dụng tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội.
112
CHƯƠNG 4
NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Những quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trên các mặt
kinh tế, văn hóa, hội với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.
Đổi mới chính sách tôn giáo một nội dung rất quan trọng trong đường lối
đổi mới của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên, tôn giáo là vấn đề rất quan trọng
rất khó, cần phải tổng kết từ thực tiễn, nên đến năm 1990, Đảng Nhà
nước ta chính sách đổi mới về tôn giáo qua Nghị quyết 24-NQ/TW ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tựa đề Về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Sau 13 năm thực hiện chính
sách đổi mới tôn giáo, tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề
mới nẩy sinh, đặt trong hoàn cảnh thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 12/03/2003 về công tác tôn giáo. Nghị quyết số 25-NQ/TW là sự phát
triển nâng cao hoàn chỉnh Nghị quyết số 24-NQ/TW trở thành quan điểm
chính thức về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
tưởng đổi mới thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
- Về phương hướng: hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
112 CHƯƠNG 4 NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1.1. Những quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Đổi mới chính sách tôn giáo là một nội dung rất quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên, tôn giáo là vấn đề rất quan trọng và rất khó, cần phải tổng kết từ thực tiễn, nên đến năm 1990, Đảng và Nhà nước ta có chính sách đổi mới về tôn giáo qua Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tựa đề Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới tôn giáo, tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề mới nẩy sinh, đặt trong hoàn cảnh thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/03/2003 về công tác tôn giáo. Nghị quyết số 25-NQ/TW là sự phát triển nâng cao và hoàn chỉnh Nghị quyết số 24-NQ/TW trở thành quan điểm chính thức về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đổi mới thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau: - Về phương hướng: hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
113
bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
- Về quan điểm, chủ trương:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
nước ta. Đồng bào các tôn giáo bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật; các tôn giáo hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật; người có tín ngưỡng cũng như các
tín đồ tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin, thực hiện các nghi thức thờ cúng,
cầu, nguyện tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lhội, lễ nghi tôn
giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.
Hai là, Đảng và nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công
với tổ quốc và nhân dân. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để hoạt động mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật chính sách của nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
113 bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Về quan điểm, chủ trương: Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật; người có tín ngưỡng cũng như các tín đồ tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin, thực hiện các nghi thức thờ cúng, cầu, nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo. Hai là, Đảng và nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với tổ quốc và nhân dân. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
114
Công tác vận đồng quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào
nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập thống nhất tquốc;
thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - hội, an ninh, quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó
có đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Nước ta hiện nay trên hai mươi triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành
của các tôn giáo phân bố mọi vùng miền địa phương trong cả nước. Công
tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp,
nhiều ngành.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo
lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác n giáo cần
được củng cố, kiện toàn, nhất những địa bàn trọng điểm đông đồng
bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất công tác vận động quần chúng.
Công tác quản nhà nước đối với các tôn giáo đấu tranh chống việc lợi
dụng tôn giáo để chống đối chế độ, chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận
động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo,
hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
4.1.2. Những quan điểm tính nguyên tắc về vai trò của Hiến
pháp trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
114 Công tác vận đồng quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Nước ta hiện nay có trên hai mươi triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo phân bố ở mọi vùng miền địa phương trong cả nước. Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều ngành. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ, chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng. Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. 4.1.2. Những quan điểm có tính nguyên tắc về vai trò của Hiến pháp trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
115
Vai trò của Hiến pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải
được tiến hành dựa trên các nguyên tắc sau:
Một là, đề cao vai trò của Hiến pháp nước ta trong việc bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo được dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về việc quan tâm tới mọi mặt đời sống của con người nhằm phát
huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quyền con người là khả năng tự nhiên “thiên bẩm bất khả xâm phạm,
không thể bị tước đoạt và tuyệt đối thiêng liêng của con người được sống,
được tự do, ấm no, hạnh phúc; là một giá trị được thừa nhận chung trên toàn
thế giới và được tất cả các quốc gia tôn trọng, bảo vệ [27, tr.97]. Có thể thấy,
phát huy nhân tố con người toàn bhoạt động của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Việt Nam toàn hội trong việc tạo ra những điều kiện,
tiền đề mọi mặt để con người thể đem hết tài năng, trí tuệ của mình cống
hiến cho đất nước chính hoạt động thực tiễn của con người nhằm phát
huy vai trò của mình trong xã hội; ngay trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ
VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các tiêu chí xác định xã hội xã
hội chủ nghĩa chúng ta đang xây dựng, trong đó có tiêu chí: “Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân”. Đồng thời, Đảng ta nêu hướng chủ yếu của chính sách hội
là “phát huy nhân tố con người trên sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội; giữa đời sống vật chất đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể cộng đồng
hội”. Nhằm cụ thể hóa thực hiện tưởng của Cương lĩnh, Báo cáo
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chăm lo cho con
người, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng thực
115 Vai trò của Hiến pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được tiến hành dựa trên các nguyên tắc sau: Một là, đề cao vai trò của Hiến pháp nước ta trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc quan tâm tới mọi mặt đời sống của con người nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quyền con người là khả năng tự nhiên “thiên bẩm” bất khả xâm phạm, không thể bị tước đoạt và tuyệt đối thiêng liêng của con người được sống, được tự do, ấm no, hạnh phúc; là một giá trị được thừa nhận chung trên toàn thế giới và được tất cả các quốc gia tôn trọng, bảo vệ [27, tr.97]. Có thể thấy, phát huy nhân tố con người là toàn bộ hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam và toàn xã hội trong việc tạo ra những điều kiện, tiền đề mọi mặt để con người có thể đem hết tài năng, trí tuệ của mình cống hiến cho đất nước và chính là hoạt động thực tiễn của con người nhằm phát huy vai trò của mình trong xã hội; ngay trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các tiêu chí xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, trong đó có tiêu chí: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Đồng thời, Đảng ta nêu hướng chủ yếu của chính sách xã hội là “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Nhằm cụ thể hóa và thực hiện tư tưởng của Cương lĩnh, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực
116
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người Việt Nam đã kết gia
nhập” xác định mục tiêu thực hiện các chính sách hội “hướng vào
phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động xã hội, khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp”.
Quyền con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người gắn
bó chặt chẽ, thống nhất với nhau, lệ thuộc vào nhau; quyền con người là cơ sở
để tạo nên nhân tố con người, còn nhân tố con người điều kiện cho phát
huy nhân tố con người, phát huy nhân t con người điều kiện đảm bảo
quyền con người và nhân tố con người. Với tư cách là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, Nhà nước ta thể chế hóa các quan điểm nói trên của Đảng trong
luật bản bằng những quy định về quyền, nghĩa vụ công dân bảo đảm
của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý để các đạo luật, bộ luật khác tiếp tục bổ sung
hoặc cụ thể hóa các quy định Hiến pháp đó. Như vậy, Hiến pháp phương
tiện pháp lý chủ yếu nhất để đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
vào cuộc sống. Tuy nhiên, để các quy phạm Hiến pháp về quyền công dân
tính khả thi cao thì trước khi xây dựng các quy phạm hiến pháp ấy, nhà nước
cần tổ chức nghiên cứu rất kỹ càng, sâu sắc, toàn diện, hiện trạng lĩnh vực
quan hệ hội Đảng đề cập mức độ nhu cầu, đòi hỏi pháp luật hóa
chúng. Bên cạnh đó, Hiến pháp còn công cụ chính trị - pháp lý sắc bén để
bảo vệ các quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc, sai trái của các thế
lực thù địch xoay quanh vấn đề nhân quyền ở nước ta. Muốn vậy, Hiến pháp
phải vừa mở rộng các quyền và những lợi ích hợp pháp của công dân phù hợp
với chủ trương, chính sách của Đảng về con người, phát huy nguồn lực con
người trình đphát triển mọi mặt của hội, vừa cần quy định đầy đủ
những bảo đảm của Nhà nước cho các quyền và những lợi ích hợp pháp ấy.
116 hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết gia nhập” và xác định mục tiêu thực hiện các chính sách xã hội là “hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”. Quyền con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau, lệ thuộc vào nhau; quyền con người là cơ sở để tạo nên nhân tố con người, còn nhân tố con người là điều kiện cho phát huy nhân tố con người, phát huy nhân tố con người là điều kiện đảm bảo quyền con người và nhân tố con người. Với tư cách là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nhà nước ta thể chế hóa các quan điểm nói trên của Đảng trong luật cơ bản bằng những quy định về quyền, nghĩa vụ công dân và bảo đảm của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý để các đạo luật, bộ luật khác tiếp tục bổ sung hoặc cụ thể hóa các quy định Hiến pháp đó. Như vậy, Hiến pháp là phương tiện pháp lý chủ yếu nhất để đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống. Tuy nhiên, để các quy phạm Hiến pháp về quyền công dân có tính khả thi cao thì trước khi xây dựng các quy phạm hiến pháp ấy, nhà nước cần tổ chức nghiên cứu rất kỹ càng, sâu sắc, toàn diện, hiện trạng lĩnh vực quan hệ xã hội mà Đảng đề cập và mức độ nhu cầu, đòi hỏi pháp luật hóa chúng. Bên cạnh đó, Hiến pháp còn là công cụ chính trị - pháp lý sắc bén để bảo vệ các quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch xoay quanh vấn đề nhân quyền ở nước ta. Muốn vậy, Hiến pháp phải vừa mở rộng các quyền và những lợi ích hợp pháp của công dân phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về con người, phát huy nguồn lực con người và trình độ phát triển mọi mặt của xã hội, vừa cần quy định đầy đủ những bảo đảm của Nhà nước cho các quyền và những lợi ích hợp pháp ấy.