Luận án tiến sĩ Kỹ thuật vật liệu: Nghiên cứu sự hình thành kẽm pherit ZnFe2O4 từ các hỗn hợp bột (Fe2O3 – ZnO) và (Fe3O4 – Zn) dưới tác dụng của nghiền năng lượng cao

6,154
113
131
17
Mi ng dng yêu cu các tính chất khác nhau. Trong lưu trữ d liu, các ht cn tính
ổn định, lc kháng t lớn để tách hiu ng kh t khi ghi bit thông tin, mô men t bão hoà cao
để đưa ra một vùng tín hiu lớn trong quá trình đc t, tính ổn định không b ảnh hưởng bi
biến đổi nhiệt độ. Đối vi các úng dng ngành y-sinh, vt liu phi có tính siêu thun t nhit
độ phòng (không có cm ng t và tính ổn định thay đổi nhanh chóng t trường) được ưu
tiên. Khi đó, toàn bộ ht là mt th t do có th thay đổi theo năng lượng nhit, trong khi các
spin nôi ti duy trì trng thái nguyên t gi chúng v trí tương đối. Như vậy, các ht nano siêu
thun t ch th được t hoá khi có t trường bên ngoài và không gi li bt k tính cht t
sau khi b t trường, điều này khiến chúng có kh năng tạo thành cht keo ổn định trong môi
trường vt lý sinh hc.
1.3. Các phương pháp chế to pherit spinen
Như chúng ta đã biết tính cht ca vt liu ngoài s ph thuc và thành phn, bn cht
liên kết, cu trúc tinh th còn ph thuộc vào độ đồng nhất, độ tinh khiết và kích thước ht. Tt
c nhng yếu t này đều do công ngh chế to vt liu quyết định bao gm: các thiết b, hoá
chất ban đầu, quy trình chế tạo … khi chế to vt liu. Vì vy, khi tng hp vt liu cn nghiên
cu xem nên dùng phương pháp công nghệ nào để thu được kết qu mong mun.
Ht nano t tính có th được chế to theo hai nguyên tc: vt liu khối được nghin nh
đến kích thước nano (top-down) và hình thành ht nano t các nguyên t (bottom-up). Phương
pháp th nht gồm các phương pháp nghiền và biến dạng như nghiền hành tinh, nghin rung.
Phương pháp thứ hai được phân thành hai loại là phương pháp vật lý (phún x, bốc bay…) và
phương pháp hoá học (phương pháp kết ta t dung dch và kết ta t khí hơi, vi nhũ tương,
thu nhit, sol-gel…) [15]. Trong thc tế, người ta thường s dụng các phương pháp sau để chế
to bt pherit spinen.
1.3.1. Phương pháp đồng kết ta
Trong phương pháp kết ta t dung dch, khi nồng độ ca chất đạt đến mt trng thái
bão hòa hn, trong dung dch s xut hiện đột ngt nhng mm kết t. Các mm kết t đó sẽ
phát trin thông qua quá trình khuếch tán ca vt cht t dung dch lên b mt ca các mm cho
ti khi mm tr thành hạt nano. Để thu được hạt có độ đồng nhất cao, người ta cn phân tách
17 Mỗi ứng dụng yêu cầu các tính chất khác nhau. Trong lưu trữ dữ liệu, các hạt cần tính ổn định, lực kháng từ lớn để tách hiệu ứng khử từ khi ghi bit thông tin, mô men từ bão hoà cao để đưa ra một vùng tín hiệu lớn trong quá trình đọc từ, tính ổn định không bị ảnh hưởng bởi biến đổi nhiệt độ. Đối với các úng dụng ngành y-sinh, vật liệu phải có tính siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng (không có cảm ứng từ dư và tính ổn định thay đổi nhanh chóng từ trường) được ưu tiên. Khi đó, toàn bộ hạt là một thể tự do có thể thay đổi theo năng lượng nhiệt, trong khi các spin nôi tại duy trì trạng thái nguyên tử giữ chúng ở vị trí tương đối. Như vậy, các hạt nano siêu thuận từ chỉ có thể được từ hoá khi có từ trường bên ngoài và không giữ lại bất kỳ tính chất từ sau khi bỏ từ trường, điều này khiến chúng có khả năng tạo thành chất keo ổn định trong môi trường vật lý sinh học. 1.3. Các phương pháp chế tạo pherit spinen Như chúng ta đã biết tính chất của vật liệu ngoài sự phụ thuộc và thành phần, bản chất liên kết, cấu trúc tinh thể còn phụ thuộc vào độ đồng nhất, độ tinh khiết và kích thước hạt. Tất cả những yếu tố này đều do công nghệ chế tạo vật liệu quyết định bao gồm: các thiết bị, hoá chất ban đầu, quy trình chế tạo … khi chế tạo vật liệu. Vì vậy, khi tổng hợp vật liệu cần nghiên cứu xem nên dùng phương pháp công nghệ nào để thu được kết quả mong muốn. Hạt nano từ tính có thể được chế tạo theo hai nguyên tắc: vật liệu khối được nghiền nhỏ đến kích thước nano (top-down) và hình thành hạt nano từ các nguyên tử (bottom-up). Phương pháp thứ nhất gồm các phương pháp nghiền và biến dạng như nghiền hành tinh, nghiền rung. Phương pháp thứ hai được phân thành hai loại là phương pháp vật lý (phún xạ, bốc bay…) và phương pháp hoá học (phương pháp kết tủa từ dung dịch và kết tủa từ khí hơi, vi nhũ tương, thuỷ nhiệt, sol-gel…) [15]. Trong thực tế, người ta thường sử dụng các phương pháp sau để chế tạo bột pherit spinen. 1.3.1. Phương pháp đồng kết tủa Trong phương pháp kết tủa từ dung dịch, khi nồng độ của chất đạt đến một trạng thái bão hòa hạn, trong dung dịch sẽ xuất hiện đột ngột những mầm kết tụ. Các mầm kết tụ đó sẽ phát triển thông qua quá trình khuếch tán của vật chất từ dung dịch lên bề mặt của các mầm cho tới khi mầm trở thành hạt nano. Để thu được hạt có độ đồng nhất cao, người ta cần phân tách
18
hai giai đoạn hình thành mm và phát trin mm. Trong quá trình phát trin mm, cn hn chế
s hình thành ca nhng mm mi.
Hình 1.14 Cơ chế hình thành và phát trin ht nanô trong dung dch [37]
Phương pháp đồng kết ta t dung dch là mt trong những phương pháp thường được
dùng để chế to các ht oxit sắt. Có hai cách để chế to oxit st bằng phương pháp này đó là
hydroxit st b oxi hóa mt phn bng mt chất oxi hóa nào đó và giá hòa hỗn hp dung dch
t phn hp chc dung dch Fe
2+
và Fe
3+
trong dung môi nước. Phương pháp thứ nhất để thu
được hạt nano có kích thước 30 - 100 nm. Phương pháp thứ hai có th thu được ht nano có
kích thước t 2 - 15nm. Bằng cách thay đổi pH và nồng độ ion trong dung dịch mà người ta có
kích thước hạt như mong muốn đồng thời làm thay đổi din tích b mt ca hạt đã được hình
thành.
Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản khi các ht hình thành kết t mnh. Sn phm thu
được trong phương pháp này có tính đồng nhất cao hơn, bề mt riêng lớn hơn, độ tinh
khiết lớn hơn và tiết kiệm được nhiều năng lượng hơn so với phương pháp gốm c
truyn. Chính vì nhng lý do này mà hiện nay phương pháp này mà đồng kết ta là s
la chn ca nhiu phòng thí nghiệm để tng hp ht nanô.
Nhược điểm: Trong phương pháp này phản ứng đồng kết ta ph thuc rt nhiu vào
tham số, khó khăn trong việc xác định điều kin kết ta ca phn ng (ph thuc vào
tích s tan, nhiệt độ, lực ion, độ pH ….). Thành phn ca sn phẩm cũng khác trong
dung dch. Mt khác các hạt thu được có di phân b khá rng.
18 hai giai đoạn hình thành mầm và phát triển mầm. Trong quá trình phát triển mầm, cần hạn chế sự hình thành của những mầm mới. Hình 1.14 Cơ chế hình thành và phát triển hạt nanô trong dung dịch [37] Phương pháp đồng kết tủa từ dung dịch là một trong những phương pháp thường được dùng để chế tạo các hạt oxit sắt. Có hai cách để chế tạo oxit sắt bằng phương pháp này đó là hydroxit sắt bị oxi hóa một phần bằng một chất oxi hóa nào đó và giá hòa hỗn hợp dung dịch tỷ phần hợp chức dung dịch Fe 2+ và Fe 3+ trong dung môi nước. Phương pháp thứ nhất để thu được hạt nano có kích thước 30 - 100 nm. Phương pháp thứ hai có thể thu được hạt nano có kích thước từ 2 - 15nm. Bằng cách thay đổi pH và nồng độ ion trong dung dịch mà người ta có kích thước hạt như mong muốn đồng thời làm thay đổi diện tích bề mặt của hạt đã được hình thành. • Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản khi các hạt hình thành kết tụ mạnh. Sản phẩm thu được trong phương pháp này có tính đồng nhất cao hơn, bề mặt riêng lớn hơn, độ tinh khiết lớn hơn và tiết kiệm được nhiều năng lượng hơn so với phương pháp gốm cổ truyền. Chính vì những lý do này mà hiện nay phương pháp này mà đồng kết tủa là sự lựa chọn của nhiều phòng thí nghiệm để tổng hợp hạt nanô. • Nhược điểm: Trong phương pháp này phản ứng đồng kết tủa phụ thuộc rất nhiều vào tham số, khó khăn trong việc xác định điều kiện kết tủa của phản ứng (phụ thuộc vào tích số tan, nhiệt độ, lực ion, độ pH ….). Thành phần của sản phẩm cũng khác trong dung dịch. Mặt khác các hạt thu được có dải phân bố khá rộng.
19
1.3.2. Phương pháp sol-gel
Phương pháp sol-gen do R.Roy đề xuất năm 1956 và trong những năm gần đây sol-gen
đã trở thành mt trong những phương pháp tổng hp oxit phức được s dng rt nhiu trong
lĩnh vực khoa hc vt liu, hình 1.15 [40].
Hình 1.15 Sơ đồ chế to vt liu nanô bng công ngh sol-gel [40]
Sol-gel là quá trình tng hp vt liu gm hai phn: sol và gel.
- Sol là h phân tán vi d th ca rn trong lng, với kích thước ht rắn có đường kích c
10
-9
10
-7
m. Nhng ht rn này nặng hơn chất lỏng xung quanh nhưng nó đủ nh để
lc phân tán chúng lớn hơn trọng lc ca nó. Nếu ht keo quá nh thì có th gi nó mt
cách chính xác là phân t trong cht lng.
- Gel là h phân tán vi d th lng trong rn và rn phân tán trong lng.
+ Rn: To thành khung ba chiu.
+ Lng (dung môi): Nm trong l hng, các mao qun ca khung rn.
Công ngh sol-gel là công ngh bao gm các phn ng hoá hc pha lng và s x
nhiệt đối vi gel. S gel hoá là hiện tượng trong đó một dung dch keo sol hay mt dung
dch chuyn thành gel. Quá trình gel hoá chính là s thiết lp liên kết gia các ht keo hoc
gia các phân t ca dung dịch để to thành mt khung ba chiu [40,19].
19 1.3.2. Phương pháp sol-gel Phương pháp sol-gen do R.Roy đề xuất năm 1956 và trong những năm gần đây sol-gen đã trở thành một trong những phương pháp tổng hợp oxit phức được sử dụng rất nhiều trong lĩnh vực khoa học vật liệu, hình 1.15 [40]. Hình 1.15 Sơ đồ chế tạo vật liệu nanô bằng công nghệ sol-gel [40] Sol-gel là quá trình tổng hợp vật liệu gồm hai phần: sol và gel. - Sol là hệ phân tán vi dị thể của rắn trong lỏng, với kích thước hạt rắn có đường kích cỡ 10 -9  10 -7 m. Những hạt rắn này nặng hơn chất lỏng xung quanh nhưng nó đủ nhỏ để lực phân tán chúng lớn hơn trọng lực của nó. Nếu hạt keo quá nhỏ thì có thể gọi nó một cách chính xác là phân tử trong chất lỏng. - Gel là hệ phân tán vi dị thể lỏng trong rắn và rắn phân tán trong lỏng. + Rắn: Tạo thành khung ba chiều. + Lỏng (dung môi): Nằm trong lỗ hổng, các mao quản của khung rắn. Công nghệ sol-gel là công nghệ bao gồm các phản ứng hoá học ở pha lỏng và sự xử lý nhiệt đối với gel. Sự gel hoá là hiện tượng trong đó có một dung dịch keo sol hay một dung dịch chuyển thành gel. Quá trình gel hoá chính là sự thiết lập liên kết giữa các hạt keo hoặc giữa các phân tử của dung dịch để tạo thành một khung ba chiều [40,19].
20
Phương pháp sol-gel trong những năm gần đây pháp triển rất đa dạng, tp trung vào ba
hướng chính:
Thu phân các mui,
Thu phân các alkoxide,
Theo con đường to phc.
Ưu điểm:
Vt liệu được tng hp nhiệt độ thấp hơn so với phương pháp gốm truyn thng
do đó tiết kiệm được nhiều năng lượng.
Quá trình chế to bằng phương pháp sol-gen cho phép hòa trn một cách đồng đều
nhiu oxit với nhau. Trong phương pháp này cho phép chế to các vt liu lai hóa
giữa vô cơ và hữu cơ không tồn ti trong t nhiên.
Có th chế tạo được vt liu có tính tinh khiết cao, hình dạng khác nhau như bột,
khi, màng, si và vt liu có cu trúc nanô.
Có th điều khiển được độ xốp và độ bền cơ học thông qua quá trình xnhit gel.
Nhược điểm:
Hóa chất ban đầu có giá thành cao và yêu cu phi bo qun tt nhất là hơi ẩm.
Vấn đề thay đổi hình dạng khi ngưng tụ, co ngót và xut hin ng xut khi x
nhiệt, đòi hỏi quá trình chế to phi hết sc cn thn.
Sol-gel không tin li cho vic tng hp vt liu khối lượng và hình dng ln.
1.3.3. Phương pháp nghiền cơ học
Trn, nghiền là phương pháp tạo hp kim bằng phương pháp cơ học được s dụng để
to s phân tán oxit nhằm tăng cường s pha trn [12]. Quy trình này liên quan đến s trn rt
mnh các vt liệu ban đầu dng bt trong mt bình kín khong vài gi. S tác động mnh cho
phép vt liệu ban đầu nm gia các viên bi nghiền để tạo va đập trong sut quá trình va chm
ca các viên bi. S va đập này có s lặp đi lặp lại sinh ra năng lượng đủ để to ra cu trúc ht
nano không cân bằng, thông thường trong trạng thái vô định hình hay gi định hình. Trong
những nghiên cứu đầu tiên, vật liệu từ tính ô-xít sắt Fe
3
O
4
, được nghiền cùng với chất hoạt hoá
bề mặt (a-xít Oleic) và dung môi (dầu, hexane). Các phụ gia giúp cho quá trình nghiền được dễ
dàng và đồng thời tránh các hạt kết tụ với nhau. Sau khi nghiền, sản phẩm phải trải qua một
quá trình phân tách hạt để có được các hạt tương đối đồng nhất.
20 Phương pháp sol-gel trong những năm gần đây pháp triển rất đa dạng, tập trung vào ba hướng chính: • Thuỷ phân các muối, • Thuỷ phân các alkoxide, • Theo con đường tạo phức. Ưu điểm: ▪ Vật liệu được tổng hợp ở nhiệt độ thấp hơn so với phương pháp gốm truyền thống do đó tiết kiệm được nhiều năng lượng. ▪ Quá trình chế tạo bằng phương pháp sol-gen cho phép hòa trộn một cách đồng đều nhiều oxit với nhau. Trong phương pháp này cho phép chế tạo các vật liệu lai hóa giữa vô cơ và hữu cơ không tồn tại trong tự nhiên. ▪ Có thể chế tạo được vật liệu có tính tinh khiết cao, hình dạng khác nhau như bột, khối, màng, sợi và vật liệu có cấu trúc nanô. ▪ Có thể điều khiển được độ xốp và độ bền cơ học thông qua quá trình xử lý nhiệt gel. Nhược điểm: ▪ Hóa chất ban đầu có giá thành cao và yêu cầu phải bảo quản tốt nhất là hơi ẩm. ▪ Vấn đề thay đổi hình dạng khi ngưng tụ, co ngót và xuất hiện ứng xuất khi xử lý nhiệt, đòi hỏi quá trình chế tạo phải hết sức cẩn thận. ▪ Sol-gel không tiện lợi cho việc tổng hợp vật liệu khối lượng và hình dạng lớn. 1.3.3. Phương pháp nghiền cơ học Trộn, nghiền là phương pháp tạo hợp kim bằng phương pháp cơ học được sử dụng để tạo sự phân tán oxit nhằm tăng cường sự pha trộn [12]. Quy trình này liên quan đến sự trộn rất mạnh các vật liệu ban đầu dạng bột trong một bình kín khoảng vài giờ. Sự tác động mạnh cho phép vật liệu ban đầu nằm giữa các viên bi nghiền để tạo va đập trong suốt quá trình va chạm của các viên bi. Sự va đập này có sự lặp đi lặp lại sinh ra năng lượng đủ để tạo ra cấu trúc hạt nano không cân bằng, thông thường trong trạng thái vô định hình hay giả định hình. Trong những nghiên cứu đầu tiên, vật liệu từ tính ô-xít sắt Fe 3 O 4 , được nghiền cùng với chất hoạt hoá bề mặt (a-xít Oleic) và dung môi (dầu, hexane). Các phụ gia giúp cho quá trình nghiền được dễ dàng và đồng thời tránh các hạt kết tụ với nhau. Sau khi nghiền, sản phẩm phải trải qua một quá trình phân tách hạt để có được các hạt tương đối đồng nhất.
21
Phương pháp truyền thống tổng hợp bột pherit nói chung và pherit kẽm nói riêng là lặp
đi lặp lại quá trình nghiền trộn, ép và xử lý nhiệt ở nhiệt độ cao (1300
o
C) các oxit kim loại
thành phần (Fe
2
O
3
ZnO). Trong phương pháp này, kẽm pherit được tạo thành thông qua
phản ứng pha rắn trong quá trình xử lý nhiệt. Quá trình nghiền trộn và ép đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo nên sự đồng đều về kích thước, cấu trúc và tính chất của sản phẩm kẽm
pherit nhận được.
Ngoài ra, bột pherit còn được chế tạo từ phản ứng pha rắn từ các oxit kim loại thành
phần theo qui trình một bước thông qua phương pháp nghiền năng lượng cao. Phương pháp
nghiền năng lượng cao, hay còn gọi là phương pháp tổng hợp pha rắn bằng năng lượng cơ học,
bao gồm nhiều giai đoạn như quá trình nghiền trộn các tiền chất ở cấp độ nguyên tử, quá trình
khuếch tán, quá trình tạo mầm và phát triển mầm pha tạo thành. Hiện nay, nó được xem như là
sự thay thế tiềm năng cho phương pháp truyền thống nhằm tổng hợp các vật liệu pherit có kích
thước và cấu trúc nano ở nhiệt độ thường.
Hình 1.16 Sơ đồ chế to vt liu nanô bng công ngh nghiền cơ học
Ưu điểm: phương pháp nghiền có ưu điểm là đơn giản và chế tạo được vt liu vi khi
ng ln. Việc thay đổi cht hot hoá b mt và dung môi không ảnh hưởng nhiều đến
quá trình chế to.
Nhược điểm: tính đồng nht ca các ht nanô không cao vì khó có th khng chế quá
trình hình thành ht nanô, có th ln tp cht t vt liu làm bi và tang nghin.
21 Phương pháp truyền thống tổng hợp bột pherit nói chung và pherit kẽm nói riêng là lặp đi lặp lại quá trình nghiền trộn, ép và xử lý nhiệt ở nhiệt độ cao (1300 o C) các oxit kim loại thành phần (Fe 2 O 3 và ZnO). Trong phương pháp này, kẽm pherit được tạo thành thông qua phản ứng pha rắn trong quá trình xử lý nhiệt. Quá trình nghiền trộn và ép đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự đồng đều về kích thước, cấu trúc và tính chất của sản phẩm kẽm pherit nhận được. Ngoài ra, bột pherit còn được chế tạo từ phản ứng pha rắn từ các oxit kim loại thành phần theo qui trình một bước thông qua phương pháp nghiền năng lượng cao. Phương pháp nghiền năng lượng cao, hay còn gọi là phương pháp tổng hợp pha rắn bằng năng lượng cơ học, bao gồm nhiều giai đoạn như quá trình nghiền trộn các tiền chất ở cấp độ nguyên tử, quá trình khuếch tán, quá trình tạo mầm và phát triển mầm pha tạo thành. Hiện nay, nó được xem như là sự thay thế tiềm năng cho phương pháp truyền thống nhằm tổng hợp các vật liệu pherit có kích thước và cấu trúc nano ở nhiệt độ thường. Hình 1.16 Sơ đồ chế tạo vật liệu nanô bằng công nghệ nghiền cơ học • Ưu điểm: phương pháp nghiền có ưu điểm là đơn giản và chế tạo được vật liệu với khối lượng lớn. Việc thay đổi chất hoạt hoá bề mặt và dung môi không ảnh hưởng nhiều đến quá trình chế tạo. • Nhược điểm: tính đồng nhất của các hạt nanô không cao vì khó có thể khống chế quá trình hình thành hạt nanô, có thể lẫn tạp chất từ vật liệu làm bi và tang nghiền.
22
So với phương pháp truyền thống nêu trên, ưu điểm của phương pháp này là nguyên
công đơn giản, nhiệt độ quá trình thp, thi gian tng hp ngn. Mc tiêu ca các nghiên cu
đều nhằm làm rõ cơ chế hình thành pherit km thông qua các phn ng pha rn xy ra trong
quá trình nghin và ảnh hưởng ca các thông s của quá trình đến cu trúc và tính cht vt lý
ca sn phm nhận được.
1.4. Tình hình nghiên cu pherit spinen
Trên thế gii:
Pherit spinen dng nano tinh th đươc biết đến vi rt nhiu tính cht t và tính cht
điện thú v nh s ổn định hóa hc và nhit cao. Nhng loi vt liệu này đã đươc ứng dng rng
rãi trong các ngành công ngh quan trọng như ghi âm, chất lng từ, lưu trữphc hi thông
tin, nâng cao chất lương ảnh chp cộng hưởng t, xúc tác, dn truyn thuc, hp th sóng điện
t và cm biến [14].
Vào năm 1978, Lefelshtel và các cộng s [60] nhóm nghiên cứu đầu tiên công b kết
qu nghiên cu tng hp km pherit bằng phương pháp nghiền năng lượng cao t bt ZnO và
α-Fe
2
O
3
hoc ZnCO
3
+ α-Fe
2
O3. Kết qu nghiên cu cho thy s khác bit v cơ chế và thi
gian hình thành pha khi s dng bột ban đầu khác nhau. Trong trường hp bt ban đầu là ZnO
và α-Fe
2
O
3
, pherit km bắt đầu xut hin sau 240 gi nghin. Tuy nhiên, khi s dng ZnCO
3
thay thế ZnO, ZnCO
3
b phân hy (ZnCO3 ZnO +CO
2
) sau 50 gi nghin và km pherit
được hình thành sau ch 100 gi nghin. Thông qua vic nghiên cu cu trúc của ZnO ban đầu
và ZnO to thành sau phn ng phân hy ZnCO
3
, nhóm nghiên cu rút ra kết lun: cu trúc ht
ban đầu càng gn dạng vô định hình, phn ng to pherit din ra càng sm và tốc độ càng
nhanh.
Năm 1996, K. Tkacova và các cng s [42] công b v s ảnh hưởng ca Fe tp cht
đến phn ng pha rn ZnO α-Fe
2
O
3
to pherit km trong quá trình nghiền năng lưng cao.
Tp cht Fe xut hin t s mài mòn ca bi và tang trong quá trình nghin. S xut hin ca Fe
giúp rút ngn quá trình hình thành pha km pherit. Tuy nhiên, kéo dài thi gian nghin s to
thành các pha dung dch rn (Fe,Zn)O không mong mun. S hình thành các pha dung dch rn
này cũng được khẳng định trong các nghiên cứu sau đó.
R.E. Ayala D.W. Marsh [73] cho thy quá trình nghiền cơ học gia ZnO và α-Fe
2
O
3
to thành pha pherit km cu trúc gần vô định hình sau 8 gi nghiền. Kích thước tinh th ca
22 So với phương pháp truyền thống nêu trên, ưu điểm của phương pháp này là nguyên công đơn giản, nhiệt độ quá trình thấp, thời gian tổng hợp ngắn. Mục tiêu của các nghiên cứu đều nhằm làm rõ cơ chế hình thành pherit kẽm thông qua các phản ứng pha rắn xảy ra trong quá trình nghiền và ảnh hưởng của các thông số của quá trình đến cấu trúc và tính chất vật lý của sản phẩm nhận được. 1.4. Tình hình nghiên cứu pherit spinen • Trên thế giới: Pherit spinen dạng nano tinh thể đươc biết đến với rất nhiều tính chất từ và tính chất điện thú vị nhờ sự ổn định hóa học và nhiệt cao. Những loại vật liệu này đã đươc ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghệ quan trọng như ghi âm, chất lỏng từ, lưu trữ và phục hồi thông tin, nâng cao chất lương ảnh chụp cộng hưởng từ, xúc tác, dẫn truyền thuốc, hấp thụ sóng điện từ và cảm biến [14]. Vào năm 1978, Lefelshtel và các cộng sự [60] là nhóm nghiên cứu đầu tiên công bố kết quả nghiên cứu tổng hợp kẽm pherit bằng phương pháp nghiền năng lượng cao từ bột ZnO và α-Fe 2 O 3 hoặc ZnCO 3 + α-Fe 2 O3. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về cơ chế và thời gian hình thành pha khi sử dụng bột ban đầu khác nhau. Trong trường hợp bột ban đầu là ZnO và α-Fe 2 O 3 , pherit kẽm bắt đầu xuất hiện sau 240 giờ nghiền. Tuy nhiên, khi sử dụng ZnCO 3 thay thế ZnO, ZnCO 3 bị phân hủy (ZnCO3 → ZnO +CO 2 ) sau 50 giờ nghiền và kẽm pherit được hình thành sau chỉ 100 giờ nghiền. Thông qua việc nghiên cứu cấu trúc của ZnO ban đầu và ZnO tạo thành sau phản ứng phân hủy ZnCO 3 , nhóm nghiên cứu rút ra kết luận: cấu trúc hạt ban đầu càng gần dạng vô định hình, phản ứng tạo pherit diễn ra càng sớm và tốc độ càng nhanh. Năm 1996, K. Tkacova và các cộng sự [42] công bố về sự ảnh hưởng của Fe tạp chất đến phản ứng pha rắn ZnO và α-Fe 2 O 3 tạo pherit kẽm trong quá trình nghiền năng lượng cao. Tạp chất Fe xuất hiện từ sự mài mòn của bi và tang trong quá trình nghiền. Sự xuất hiện của Fe giúp rút ngắn quá trình hình thành pha kẽm pherit. Tuy nhiên, kéo dài thời gian nghiền sẽ tạo thành các pha dung dịch rắn (Fe,Zn)O không mong muốn. Sự hình thành các pha dung dịch rắn này cũng được khẳng định trong các nghiên cứu sau đó. R.E. Ayala và D.W. Marsh [73] cho thấy quá trình nghiền cơ học giữa ZnO và α-Fe 2 O 3 tạo thành pha pherit kẽm cấu trúc gần vô định hình sau 8 giờ nghiền. Kích thước tinh thể của
23
km pherit b ảnh hưởng bi nhiệt độ kết tinh li và nm trong khoảng 19 đến 35 nm tương
ng vi nhiệt độ t 550 đến 800
o
C.
Năm 2008, Malick Jean và các cng s [53] nghiên cu ảnh hưởng ca tốc độ nghin
đến kh năng tổng hp km pherit t ZnO và α-Fe
2
O
3
. Kết qu cho thấy, khi tăng tốc độ ca
máy nghin và tang nghin, thi gian tng hp pherit km càng gim t 36 xung còn 12 gi.
Bt pherit kẽm kích thước nanomet được to thành sau 12 gi nghin vi tốc độ máy nghin
500 vòng/phút và tang nghin 900 vòng/phút.
Năm 2011, nghiên cứu ca Marinca và các cng s [78] cho thy phn ng pha rn gia
ZnO và Fe
2
O
3
to thành pherit km trong quá trình nghiền năng lượng cao xy ra hoàn toàn sau
8 gi nghiền. Kích thước tinh th ca km pherit khong 20 nm. Hng s mng ca pherit km
tăng theo thời gian nghin và gim sau khi nh hiện tượng hoàn thin mng tinh th trong quá
trình .
Kim và Saito (2001) [40] đã nghiên cứu phn ng hóa hc ca ferrite km (ZnFe
2
O
4
)
t hn hp bt km oxit (ZnO) và hematit (-Fe
2
O
3
) theo nhiệt độ phòng bng cách s dng
mt máy nghiền bi hành tinh. Mài được kích hoạt để có được hn hợp vô định hình ca nguyên
liệu ban đầu. Hu hết ZnO được phn ng vi -Fe
2
O
3
to chuyển đổi thành các hp cht km
và sắt vô định hình không hòa tan trong vòng 2 gi nghin. Kéo thi gian nghiền làm tăng
ng s kết tinh ca ZnFe
2
O
4
t vô định hình. Các hp cht ZnFe
2
O
4
được kết tinh bng cách
nghin trong 3 gi hoặc hơn bao gồm các ht nano tinh th có din tích b mặt đặc bit cao.
Zoricaz. Lazarevic và các cng s [95] đã nghiên cứu cho thy, ZnFe
2
O
4
được tng hp
t hn hp (1) Zn(OH)
2
-Fe
2
O
3
and (2) Zn(OH)
2
/Fe(OH)
3
bằng phương pháp -hoá
(mechanochemical route) s dng máy nghin bi. ZnFe
2
O
4
bắt đầu hình thành sau 4 gi nghin
và phn ng hoàn thành sau 18 gi nghiền. Kích thước nano-tinh th ca ZnFe
2
O
4
được hình
thành t hn hp (1) và (2) lần lượt là 20.3 nm và 17.6 nm. Ph Raman cho thy mu tng hp
tn ti cu trúc hn hợp. Để khẳng định s tn ti ca các pha và s sp xếp của cation, phương
pháp đo Mossbauer được thc hin. Các tính cht t ca ZnFe
2
O
4
cũng được nghiên . Các kết
qu cho thy các mu có hành vi siêu thun t nhiệt độ phòng. Các tính cht t ca mu 2 cao
hơn.
Malick Jean cng s [51] cho rng, ZnFe
2
O
4
được tng hp bằng phương pháp
nghiền cơ học t hn hp bột α-Fe
2
O
3
and ZnO. Phương pháp nhiễu x tia X và ph Mossbauer
được s dụng để phân tích cu trúc và t tính ca bt nghin. Ảnh hưởng ca các thông s
nghin tới độ sch ca ZnFe
2
O
4
được nghiên cu.
23 kẽm pherit bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ ủ kết tinh lại và nằm trong khoảng 19 đến 35 nm tương ứng với nhiệt độ ủ từ 550 đến 800 o C. Năm 2008, Malick Jean và các cộng sự [53] nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ nghiền đến khả năng tổng hợp kẽm pherit từ ZnO và α-Fe 2 O 3 . Kết quả cho thấy, khi tăng tốc độ của máy nghiền và tang nghiền, thời gian tổng hợp pherit kẽm càng giảm từ 36 xuống còn 12 giờ. Bột pherit kẽm kích thước nanomet được tạo thành sau 12 giờ nghiền với tốc độ máy nghiền 500 vòng/phút và tang nghiền 900 vòng/phút. Năm 2011, nghiên cứu của Marinca và các cộng sự [78] cho thấy phản ứng pha rắn giữa ZnO và Fe 2 O 3 tạo thành pherit kẽm trong quá trình nghiền năng lượng cao xảy ra hoàn toàn sau 8 giờ nghiền. Kích thước tinh thể của kẽm pherit khoảng 20 nm. Hằng số mạng của pherit kẽm tăng theo thời gian nghiền và giảm sau khi ủ nhờ hiện tượng hoàn thiện mạng tinh thể trong quá trình ủ. Kim và Saito (2001) [40] đã nghiên cứu phản ứng hóa học của ferrite kẽm (ZnFe 2 O 4 ) từ hỗn hợp bột kẽm oxit (ZnO) và hematit (-Fe 2 O 3 ) theo nhiệt độ phòng bằng cách sử dụng một máy nghiền bi hành tinh. Mài được kích hoạt để có được hỗn hợp vô định hình của nguyên liệu ban đầu. Hầu hết ZnO được phản ứng với -Fe 2 O 3 to chuyển đổi thành các hợp chất kẽm và sắt vô định hình không hòa tan trong vòng 2 giờ nghiền. Kéo thời gian nghiền làm tăng cường sự kết tinh của ZnFe 2 O 4 từ vô định hình. Các hợp chất ZnFe 2 O 4 được kết tinh bằng cách nghiền trong 3 giờ hoặc hơn bao gồm các hạt nano tinh thể có diện tích bề mặt đặc biệt cao. Zoricaz. Lazarevic và các cộng sự [95] đã nghiên cứu cho thấy, ZnFe 2 O 4 được tổng hợp từ hỗn hợp (1) Zn(OH) 2 /α-Fe 2 O 3 and (2) Zn(OH) 2 /Fe(OH) 3 bằng phương pháp cơ-hoá (mechanochemical route) sử dụng máy nghiền bi. ZnFe 2 O 4 bắt đầu hình thành sau 4 giờ nghiền và phản ứng hoàn thành sau 18 giờ nghiền. Kích thước nano-tinh thể của ZnFe 2 O 4 được hình thành từ hỗn hợp (1) và (2) lần lượt là 20.3 nm và 17.6 nm. Phổ Raman cho thấy mẫu tổng hợp tồn tại cấu trúc hỗn hợp. Để khẳng định sự tồn tại của các pha và sự sắp xếp của cation, phương pháp đo Mossbauer được thực hiện. Các tính chất từ của ZnFe 2 O 4 cũng được nghiên . Các kết quả cho thấy các mẫu có hành vi siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng. Các tính chất từ của mẫu 2 cao hơn. Malick Jean và cộng sự [51] cho rằng, ZnFe 2 O 4 được tổng hợp bằng phương pháp nghiền cơ học từ hỗn hợp bột α-Fe 2 O 3 and ZnO. Phương pháp nhiễu xạ tia X và phổ Mossbauer được sử dụng để phân tích cấu trúc và từ tính của bột nghiền. Ảnh hưởng của các thông số nghiền tới độ sạch của ZnFe 2 O 4 được nghiên cứu.
24
F. J. Guaita và các cng s [19] đã nghiên cứu pha ZnFe
2
O
4
, có cấu trúc spinel, được
tng hp bng phn ng rn t nghiền cơ học t các mui. Tuy nhiên phương pháp này cần x
nhiệt độ cao trong vài tiếng để đạt được pha đơn chất và đồng nht. ZnFe
2
O
4
cũng được
tng hp thông qua các mui ca axit citric (citrate route) với độ đồng đều cao hơn, thời gian
ngắn hơn. Phương pháp này cho phép tổng hợp được ZnFe
2
O
4
600
o
C/2h.
J.P. Muñoz Mendoza và các cng s [37] nghiên cu bt t Fe
3
O
4
và Zn được nghin
cơ học to composite vi mục đích cải thin điện kháng (H
c
). Hc = 449.1 Oe đạt được cho mu
nghin 540 phút. T độ bão hoà (M
s
) có giá tr 50.35 43.7 emu/g lần lượt mu nghin
300, 540 phút. T (M
r
) đạt 3.976 9.507 emu/g đạt được lần lượt cho các mu nghin 60
và 540 phút.
L.takacs và Robert C. Reno [43] đã nghiền hn hp bt st t Fe
3
O
4
và Zn ti 540 phút.
Sau đó bột được phân tích, đánh giá sử dụng các phương pháp XRD, ph Mossbauer, đo từ
tính. Trong 2 gi nghiền đầu tiên, hn hp oxit to thành vào b phân hu thành ZnO và Fe. Fe
mi to thành quá bão hoà Zn.
Z.H. Zhou và các cng s [97] đã được tng hp thành công compozit t trong sut
cha các ht nano ZnFe
2
O
4
phân b đồng đều trong nn silica. Do s đồng đều thành phn ca
các nguyên liệu ban đầu, nhiệt độ to ZnFe
2
O
4
trong nanocompozit rt thp so với phương pháp
tng hp ceramic truyn thng. Nghiên cu ảnh hưng ca nhiệt độ sy tới kích thước ht
ZnFe
2
O
4
ch ra rng vic hình thành mạng lưới Silica có th khng chế vic phát trin ca ht
ZnFe
2
O
4
. Các tính cht t th hin s ph thuc mnh m vào kích thước hạt như một h qu
ca vic phân b bất bình thường ca cation hiu ng b mt. Các tính cht quang ca
nanocompozit có th điều chnh bằng cách thay đổi nồng độ ZnFe
2
O
4
trong nền silica vô định
hình. Rìa (cnh) hp th khoảng 600 nm là màu xanh dương xô lệch 0.65 eV khi hàm lượng
ZnFe
2
O
4
gim t 30 xung 5% khối lượng.
Các nghiên cu trên thế giới đều cho thy vic nghin trn các kim loi, ô xit hay các
muối trên cơ sở Fe và Zn có th hình thành pha ZnFe
2
O
4
. S hình thành pha ZnFe
2
O
4
hu hết
xy ra tốc độ nghin cao (500-900 v/ph), kèm theo quá trình x lý nhit (4-10 gi 600-1000
0
C) vi kích thước tinh th khong 18-20 nm và lc kháng t còn khá ln (449 Oe). Vic nghin
toàn phần để tạo đơn pha ZnFe
2
O
4
cũng như hạ thp lc kháng t ca sn phm còn tiếp tc
được nghiên cu.
24 F. J. Guaita và các cộng sự [19] đã nghiên cứu pha ZnFe 2 O 4 , có cấu trúc spinel, được tổng hợp bằng phản ứng rắn từ nghiền cơ học từ các muối. Tuy nhiên phương pháp này cần xử lý ở nhiệt độ cao trong vài tiếng để đạt được pha đơn chất và đồng nhất. ZnFe 2 O 4 cũng được tổng hợp thông qua các muối của axit citric (citrate route) với độ đồng đều cao hơn, thời gian ngắn hơn. Phương pháp này cho phép tổng hợp được ZnFe 2 O 4 ở 600 o C/2h. J.P. Muñoz Mendoza và các cộng sự [37] nghiên cứu bột từ Fe 3 O 4 và Zn được nghiền cơ học tạo composite với mục đích cải thiện điện kháng (H c ). Hc = 449.1 Oe đạt được cho mẫu nghiền ở 540 phút. Từ độ bão hoà (M s ) có giá trị 50.35 và 43.7 emu/g lần lượt ở mẫu nghiền 300, 540 phút. Từ dư (M r ) đạt 3.976 và 9.507 emu/g đạt được lần lượt cho các mẫu nghiền 60 và 540 phút. L.takacs và Robert C. Reno [43] đã nghiền hỗn hợp bột sắt từ Fe 3 O 4 và Zn tới 540 phút. Sau đó bột được phân tích, đánh giá sử dụng các phương pháp XRD, phổ Mossbauer, đo từ tính. Trong 2 giờ nghiền đầu tiên, hỗn hợp oxit tạo thành vào bị phân huỷ thành ZnO và Fe. Fe mới tạo thành quá bão hoà Zn. Z.H. Zhou và các cộng sự [97] đã được tổng hợp thành công compozit từ trong suốt chứa các hạt nano ZnFe 2 O 4 phân bố đồng đều trong nền silica. Do sự đồng đều thành phần của các nguyên liệu ban đầu, nhiệt độ tạo ZnFe 2 O 4 trong nanocompozit rất thấp so với phương pháp tổng hợp ceramic truyền thống. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ sấy tới kích thước hạt ZnFe 2 O 4 chỉ ra rằng việc hình thành mạng lưới Silica có thể khống chế việc phát triển của hạt ZnFe 2 O 4 . Các tính chất từ thể hiện sự phụ thuộc mạnh mẽ vào kích thước hạt như một hệ quả của việc phân bố bất bình thường của cation và hiệu ứng bề mặt. Các tính chất quang của nanocompozit có thể điều chỉnh bằng cách thay đổi nồng độ ZnFe 2 O 4 trong nền silica vô định hình. Rìa (cạnh) hấp thụ khoảng 600 nm là màu xanh dương xô lệch 0.65 eV khi hàm lượng ZnFe 2 O 4 giảm từ 30 xuống 5% khối lượng. Các nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy việc nghiền trộn các kim loại, ô xit hay các muối trên cơ sở Fe và Zn có thể hình thành pha ZnFe 2 O 4 . Sự hình thành pha ZnFe 2 O 4 hầu hết xảy ra ở tốc độ nghiền cao (500-900 v/ph), kèm theo quá trình xử lý nhiệt (4-10 giờ ở 600-1000 0 C) với kích thước tinh thể khoảng 18-20 nm và lực kháng từ còn khá lớn (449 Oe). Việc nghiền toàn phần để tạo đơn pha ZnFe 2 O 4 cũng như hạ thấp lực kháng từ của sản phẩm còn tiếp tục được nghiên cứu.
25
Vit Nam:
Các ht t nano pherit spinel đã thu hút được s quan tâm của các cơ sở nghiên cứu đặc
bit là Vin Khoa hc Vt liu (Vin Khoa hc và Công ngh Vit Nam) và Trung tâm Khoa
hc Vt liu (Khoa Vật lý, Đại hc Khoa hc T nhiên, Đại hc Quc gia Hà Ni). Các nghiên
cu tại các đơn vị nêu trên tp trung mnh vào vic ng dng các ht nano trong y-sinh học để
nhit tr ung thư, dn thuc, x lý cht thi hóa hc và sinh học và đã đạt nhiu kết qu kh
quan trong việc đưa các ht nano vào các ng dng. Nhóm nghiên cu v ht t nano ti Vin
Vt lý Thành ph H Chí Minh đang tiến hành các nghiên cu v vai trò ca s phân b kích
thước và tương tác gia các ht lên tính cht t da trên phng hình Monte-Carlo. Ti
Vin ITIMS Trường ĐHBK HN cũng đã có những nhiên cu v các ht pherit spinen Mn,
Co và Li. Nhng nghiên cu này mi ch yếu gii quyết v vấn đề công ngh chế to và nhng
nghiên cu v tính cht t còn phân b cation chưa được làm sáng t trên các h mu.
1.5. Tng hp pherit spinen ZnFe
2
O
4
bằng phương pháp nghiền
năng lượng cao
1.5.1. Cơ chế hình thành ZnFe
2
O
4
bằng phương pháp nghiền năng lượng cao
Trong sut quá trình nghiền năng lượng cao các ht bột được dát mng, hàn ngui, v
và hàn ngui lp li nhiu ln. Khi hai vt nghin va chm, một lượng bt b gi gia (hình
1.17).
Hình 1.17. Va chm bi-bt ca hn hp bt trong quá trình nghin [12]
25 • Ở Việt Nam: Các hạt từ nano pherit spinel đã thu hút được sự quan tâm của các cơ sở nghiên cứu đặc biệt là Viện Khoa học Vật liệu (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và Trung tâm Khoa học Vật liệu (Khoa Vật lý, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội). Các nghiên cứu tại các đơn vị nêu trên tập trung mạnh vào việc ứng dụng các hạt nano trong y-sinh học để nhiệt trị ung thư, dẫn thuốc, xử lý chất thải hóa học và sinh học và đã đạt nhiều kết quả khả quan trong việc đưa các hạt nano vào các ứng dụng. Nhóm nghiên cứu về hạt từ nano tại Viện Vật lý Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành các nghiên cứu về vai trò của sự phân bố kích thước và tương tác giữa các hạt lên tính chất từ dựa trên mô phỏng mô hình Monte-Carlo. Tại Viện ITIMS – Trường ĐHBK HN cũng đã có những nhiên cứu về các hạt pherit spinen Mn, Co và Li. Những nghiên cứu này mới chủ yếu giải quyết về vấn đề công nghệ chế tạo và những nghiên cứu về tính chất từ còn phân bố cation chưa được làm sáng tỏ trên các hệ mẫu. 1.5. Tổng hợp pherit spinen ZnFe 2 O 4 bằng phương pháp nghiền năng lượng cao 1.5.1. Cơ chế hình thành ZnFe 2 O 4 bằng phương pháp nghiền năng lượng cao Trong suốt quá trình nghiền năng lượng cao các hạt bột được dát mỏng, hàn nguội, vỡ và hàn nguội lặp lại nhiều lần. Khi hai vật nghiền va chạm, một lượng bột bị giữ ở giữa (hình 1.17). Hình 1.17. Va chạm bi-bột của hỗn hợp bột trong quá trình nghiền [12]
26
Lực tác động làm các ht bt biến dng do dẫn đến hóa bn biến dng và v. Các b
mt mới được to ra có th làm các ht bt hàn vi nhau và dẫn đến tăng kích thước ht. Trong
các giai đoạn đầu ca nghin các ht bt mm (nếu chúng ta s dng vt liu kết hp do - do
hoc do - giòn), xu hướng ca chúng hàn ngui vi nhau và to thành các ht ln. Cùng vi
vic tiếp tc biến dng do, các ht hóa bn biến dng và v do cơ chế phá hy dão và/hoc do
v các vy giòn. Các mnh v được to ra bởi cơ chế này có th tiếp tc giảm kích thưc nếu
không có các lc kết t mnh. trạng thái này, xu hướng v chiếm ưu thế so vi hàn ngui.
Do các tác động liên tc ca các bi nghin, cu trúc ca các ht bt dn dn nh mn.
Tuy nhiên, cn phi nh rng hiu qu ca vic giảm kích thước ht rt thp, khong
0.1% trong nghiền bi thông thường. Hiu quth cao hơn trong quá trình nghiền bi năng
ợng cao, nhưng vẫn nh hơn 1%. Năng lượng hầu như bị mất dưới dng nhiệt, nhưng lượng
nh cũng được s dng trong biến dạng đàn hồi và do ca các ht bt.
Sau khi nghin mt thi gian, trng thái ổn định đạt được khi có s cân bng gia tc
độ hàn ngui, với xu hướng tăng kích thước ht trung bình, và tốc độ v, với xu hướng làm
giảm kích thước ht bt trung bình. Các ht nh hơn có thể chịu được biến dng do mà không
b v và có xu hướng hàn ngui thành các ht lớn hơn. Xu hướng chung là c các ht mn và to
tiến ti một kích thước trung gian. trng thái này mi ht bt có cha các thành phn ban
đầu, mt phn trn ca chúng vi nhau và các ht bột đạt độ cng bão hòa do tích t năng lượng
biến dng. S phân b kích thước ht trng thái này nh, do các ht lớn hơn trung bình thì
giảm kích thước cùng tốc độ vi các ht v nh trung bình phát trin do s tích t ca các ht
nh (hình 1.18).
Hình 1.18. S phân b kích thước ht trong qua trình nghin [12]
26 Lực tác động làm các hạt bột biến dạng dẻo dẫn đến hóa bền biến dạng và vỡ. Các bề mặt mới được tạo ra có thể làm các hạt bột hàn với nhau và dẫn đến tăng kích thước hạt. Trong các giai đoạn đầu của nghiền các hạt bột mềm (nếu chúng ta sử dụng vật liệu kết hợp dẻo - dẻo hoặc dẻo - giòn), xu hướng của chúng hàn nguội với nhau và tạo thành các hạt lớn. Cùng với việc tiếp tục biến dạng dẻo, các hạt hóa bền biến dạng và vỡ do cơ chế phá hủy dão và/hoặc do vỡ các vảy giòn. Các mảnh vỡ được tạo ra bởi cơ chế này có thể tiếp tục giảm kích thước nếu không có các lực kết tụ mạnh. Ở trạng thái này, xu hướng vỡ chiếm ưu thế so với hàn nguội. Do các tác động liên tục của các bi nghiền, cấu trúc của các hạt bột dần dần nhỏ mịn. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng hiệu quả của việc giảm kích thước hạt rất thấp, khoảng 0.1% trong nghiền bi thông thường. Hiệu quả có thể cao hơn trong quá trình nghiền bi năng lượng cao, nhưng vẫn nhỏ hơn 1%. Năng lượng hầu như bị mất dưới dạng nhiệt, nhưng lượng nhỏ cũng được sử dụng trong biến dạng đàn hồi và dẻo của các hạt bột. Sau khi nghiền một thời gian, trạng thái ổn định đạt được khi có sự cân bằng giữa tốc độ hàn nguội, với xu hướng tăng kích thước hạt trung bình, và tốc độ vỡ, với xu hướng làm giảm kích thước hạt bột trung bình. Các hạt nhỏ hơn có thể chịu được biến dạng dẻo mà không bị vỡ và có xu hướng hàn nguội thành các hạt lớn hơn. Xu hướng chung là cả các hạt mịn và to tiến tới một kích thước trung gian. Ở trạng thái này mỗi hạt bột có chứa các thành phần ban đầu, một phần trộn của chúng với nhau và các hạt bột đạt độ cứng bão hòa do tích tụ năng lượng biến dạng. Sự phân bố kích thước hạt ở trạng thái này nhỏ, do các hạt lớn hơn trung bình thì giảm kích thước cùng tốc độ với các hạt vỡ nhỏ trung bình phát triển do sự tích tụ của các hạt nhỏ (hình 1.18). Hình 1.18. Sự phân bố kích thước hạt trong qua trình nghiền [12]