Luận án Tiến sĩ: Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng và bổ sung viên sắt trên phụ nữ độ tuổi 20 đến 35 tuổi người dân tộc Tày tại một số xã huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên

2,371
590
153
99
Bng 3.30. Hiu qu đi vi t l thiếu năng lượng trường din
của đối tưng sau 6 tháng can thip
Thiếu năng lƣợng trƣờng diễn
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
CSHQ (%)
81,4
16,8
Hiệu quả can thiệp thực (%)
64,6
Kết qu bng 3.30 th hin hiu qu ci thin tình trng thiếu năng
ợng trường din ph n trong độ tui 20 35 sau 6 tháng can thip. Ch
s hiu qu nhóm can thip 81,4% cao gp 4,9 ln so vi nhóm chng ch
đạt 16,8%. Hiu qu thc ci thin tình trng thiếu năng lượng trường din
đạt 64,6%.
Bng 3.31. Thay đi nồng độ Hemoglobin và Feritin huyết thanh trungnh
của đối tưng nghiên cu sau 6 tháng can thip
Chỉ sô
Nhóm can thiệp
(n=96)
Nhóm chứng
(n=92)
Hemoglobin
trung bình
(g/l)
T0
126,2 ± 12,3
126,0 ± 10,9
T6
131,2 ± 10,3**
e
126,0 ± 10,1*
a
T6 T0
+5,0
0
Ferritin
huyết thanh
trung bình
(µg/l)
T0
74,4 ± 58,3
65,3 ± 58,1
T6
93,6 ± 62,1**
e
67,0 ± 54,9*
a
T6 T0
+19,2
+1,7
***p < 0,001,
a
t test,
e
t-test ghép cp
99 Bảng 3.30. Hiệu quả đối với tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn của đối tượng sau 6 tháng can thiệp Thiếu năng lƣợng trƣờng diễn Nhóm can thiệp Nhóm chứng CSHQ (%) 81,4 16,8 Hiệu quả can thiệp thực (%) 64,6 Kết quả bảng 3.30 thể hiện hiệu quả cải thiện tình trạng thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ trong độ tuổi 20 – 35 sau 6 tháng can thiệp. Chỉ số hiệu quả ở nhóm can thiệp 81,4% cao gấp 4,9 lần so với nhóm chứng chỉ đạt 16,8%. Hiệu quả thực cải thiện tình trạng thiếu năng lượng trường diễn đạt 64,6%. Bảng 3.31. Thay đổi nồng độ Hemoglobin và Feritin huyết thanh trung bình của đối tượng nghiên cứu sau 6 tháng can thiệp Chỉ sô Nhóm can thiệp (n=96) Nhóm chứng (n=92) Hemoglobin trung bình (g/l) T0 126,2 ± 12,3 126,0 ± 10,9 T6 131,2 ± 10,3** e 126,0 ± 10,1* a T6 – T0 +5,0 0 Ferritin huyết thanh trung bình (µg/l) T0 74,4 ± 58,3 65,3 ± 58,1 T6 93,6 ± 62,1** e 67,0 ± 54,9* a T6 – T0 +19,2 +1,7 ***p < 0,001, a t test, e t-test ghép cặp
100
Kết qu t bng trên ch ra rằng đã sự ci thiện đáng kể nng độ
Hemoglobin trung bình ca nhóm can thip với độ chênh lch T6 T0
5g/l, nhóm chng không s thay đổi . V nồng độ Ferritin huyết
thanh trung nh, nhóm can thiệp tăng cao n nhiu (19,2µg/l) so vi
nhóm chng (1,7µg/l). S khác bit gia hai nhóm can thip nhóm
chng ti thời điểm T6 - T0 ý nghĩa thống vi p< 0,001. So sánh
cùng nhóm v nồng đ Hemoglobin và Ferritin huyết thanh trung bình ti
các thi điểm T6 T0 nhóm can thip s khác biệt ý nghĩa thng
kê vi p< 0,001.
Bng 3.32. Hiu qu can thiệp đến s thay đi t l thiếu máu và d tr st
cn kit của đối tượng nghiên cu
Chỉ số
Nhóm can thiệp
(n=96)
Nhóm chứng
(n=92)
Thiếu máu (%)
Hb< 120g/l
T0
27 (28,1%)
22 (23,9%)
T6
12 (12,5%)
23 (25,0%)*
c
T6 T0
-15 (15,6%)
+1 (1,1%)
Dự trữ sắt cạn kiệt
(%)
Ferritin huyết
thanh < 15µg
T0
10 (10,4%)
14 (15,2%)
T6
0 (0,0%)
12 (13,0%)*
c
T6 T0
-10 (10,4%)
-2 (2,2%)
*p < 0,05,
c
χ
2
test
100 Kết quả từ bảng trên chỉ ra rằng đã có sự cải thiện đáng kể nồng độ Hemoglobin trung bình của nhóm can thiệp với độ chênh lệch T6 – T0 là 5g/l, ở nhóm chứng không có sự thay đổi gì. Về nồng độ Ferritin huyết thanh trung bình, ở nhóm can thiệp tăng cao hơn nhiều (19,2µg/l) so với nhóm chứng (1,7µg/l). Sự khác biệt giữa hai nhóm can thiệp và nhóm chứng tại thời điểm T6 - T0 có ý nghĩa thống kê với p< 0,001. So sánh cùng nhóm về nồng độ Hemoglobin và Ferritin huyết thanh trung bình tại các thời điểm T6 – T0 ở nhóm can thiệp có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,001. Bảng 3.32. Hiệu quả can thiệp đến sự thay đổi tỷ lệ thiếu máu và dự trữ sắt cạn kiệt của đối tượng nghiên cứu Chỉ số Nhóm can thiệp (n=96) Nhóm chứng (n=92) Thiếu máu (%) Hb< 120g/l T0 27 (28,1%) 22 (23,9%) T6 12 (12,5%) 23 (25,0%)* c T6 – T0 -15 (15,6%) +1 (1,1%) Dự trữ sắt cạn kiệt (%) Ferritin huyết thanh < 15µg T0 10 (10,4%) 14 (15,2%) T6 0 (0,0%) 12 (13,0%)* c T6 – T0 -10 (10,4%) -2 (2,2%) *p < 0,05, c χ 2 test
101
Kết qu bng trên cho thy nhóm can thip giảm đáng kể t l thiếu
máu. Ti thời điểm T0 t l thiếu máu của đối tượng nghiên cu là 28,1% và
23,9% đến thời điểm T6 gim xung còn 12,5% 25,0% lần lượt nhóm
can thiệp và nhóm đối chng. S khác biệt có ý nghĩa thống kê gia hai nhóm
can thip và nhóm chng v t l thiếu máu ti thời điểm T6 T0 (p<0,05).
Tình trng d tr st cn kit nhóm can thip giảm 10,4% cao hơn so
vi nhóm chng ch gim 2,2%, s khác biệt có ý nghĩa thống kê vi p<0,05.
Bng 3.33. Hiu qu đối vi t l thiếu máu và d tr st thp của đốing
sau 6 tháng can thip
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
Hiệu quả can thiệp đối vơí tỷ lệ thiếu máu
CSHQ (%)
55,5
-1,1
Hiệu quả can thiệp thực (%)
60,1
Hiệu quả can thiệp đối vơí tỷ lệ dự trữ sắt cạn kiệt
CSHQ (%)
100,0
14,5
Hiệu quả can thiệp thực (%)
85,5
Kết qu bng 3.33 cho thy hiu qu ca gii pháp can thip lên tình
trng thiếu máu và cn kit d tr st của đối tượng nghiên cứu. Đối vi tình
trng thiếu máu, ch s hiu qu nhóm can thip 55,5% trong khi nhóm
đối chng ch s này -1,1%. Hiu qu thc ca can thiệp đến ci thin t l
thiếu máu đạt 60,1%.
V tình trng d tr st cn kit, ch s hiu qu nhóm can thip
100% cao gp 6,9 ln so với nhóm đối chng 14,5%. Hiu qu thc ca can
thiệp đến ci thin tình trng d tr st cn kit của đối tượng nghiên cu là
85,5%.
101 Kết quả bảng trên cho thấy nhóm can thiệp giảm đáng kể tỷ lệ thiếu máu. Tại thời điểm T0 tỷ lệ thiếu máu của đối tượng nghiên cứu là 28,1% và 23,9% đến thời điểm T6 giảm xuống còn 12,5% và 25,0% lần lượt ở nhóm can thiệp và nhóm đối chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm can thiệp và nhóm chứng về tỷ lệ thiếu máu tại thời điểm T6 – T0 (p<0,05). Tình trạng dự trữ sắt cạn kiệt ở nhóm can thiệp giảm 10,4% cao hơn so với nhóm chứng chỉ giảm 2,2%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Bảng 3.33. Hiệu quả đối với tỷ lệ thiếu máu và dự trữ sắt thấp của đối tượng sau 6 tháng can thiệp Nhóm can thiệp Nhóm chứng Hiệu quả can thiệp đối vơí tỷ lệ thiếu máu CSHQ (%) 55,5 -1,1 Hiệu quả can thiệp thực (%) 60,1 Hiệu quả can thiệp đối vơí tỷ lệ dự trữ sắt cạn kiệt CSHQ (%) 100,0 14,5 Hiệu quả can thiệp thực (%) 85,5 Kết quả bảng 3.33 cho thấy hiệu quả của giải pháp can thiệp lên tình trạng thiếu máu và cạn kiệt dự trữ sắt của đối tượng nghiên cứu. Đối với tình trạng thiếu máu, chỉ số hiệu quả ở nhóm can thiệp 55,5% trong khi ở nhóm đối chứng chỉ số này -1,1%. Hiệu quả thực của can thiệp đến cải thiện tỷ lệ thiếu máu đạt 60,1%. Về tình trạng dự trữ sắt cạn kiệt, chỉ số hiệu quả ở nhóm can thiệp là 100% cao gấp 6,9 lần so với nhóm đối chứng 14,5%. Hiệu quả thực của can thiệp đến cải thiện tình trạng dự trữ sắt cạn kiệt của đối tượng nghiên cứu là 85,5%.
102
Chƣơng 4
BÀN LUN
4.1. Tình trạng thiếu năng lƣợng trƣờng diễn, thiếu máu thiếu sắt phụ
nữ 20 35 tuổi ngƣời dân tộc y tại hai Hợp Thành Phủ Lý,
huyện Phú Lƣơng, tỉnh Thái Nguyên
585 ph n 20 35 tuổi người dân tc Tày tham gia vào nghiên cu, c
mẫu này đủ cho điều tra trước can thip theo thiết kế để tìm hiu t l thiếu
năng lượng trường din, thiếu máu, thiếu sắt đồng thời đảm bo vic la
chọn các đối tượng đủ tiêu chuẩn cho giai đon nghiên cu can thip truyn
thông giáo dục dinh dưỡng và b sung viên st/folic tiếp theo. Đối tượng tham
gia nghiên cu t l cao nht nhóm tui 30 35 (59,8%), thp nht
nhóm tui 20 24 (16,6%); trình độ hc vn phn ln t trung hc ph thông
tr xung (85,6%); ngh nghip chính là làm rung (61,3%); s gia đình đối
ng thuc h nghèo là 21,6%.
Cân nng trung bình ca ph n tuổi sinh đẻ người dân tc Tày 48,5 ±
5,9kg cao hơn so với trung bình toàn quốc năm 2010 (46,0kg) cũng cao
hơn so với kết qu nghiên cu ca H Thu Mai năm 2013 trên phụ n tui
sinh đẻ Tân Lạc, Hòa Bình (45,5 ± 4,8 kg), tương đương vi kết qu nghiên
cu ca Nguyễn Quang Dũng trên phụ n tuổi sinh đẻ người H’Mông tại Bo
Lc, Cao Bng là 48,1 ± 5,2kg [10],[11],[34]. V chiu cao, ph n trong độ
tui 20 35 người dân tc Tày chiu cao trung bình 152 ± 5,0cm thp
hơn chiều cao trung bình ca n trưởng thành Vit Nam 1,3cm (153,3 ±
5,5cm) cũng thấp hơn so với kết qu nghiên cu ca mt s tác gi
trong nước khác [34],[105],[106]. BMI trung bình của đối tượng trong
nghiên cu ca chúng tôi là 20,9 ± 2,3kg/m
2
tương đương với kết qu nghiên
cu ca tác gi Trương Hồng Sơn trên phụ n tuổi sinh đ (18 35 tui)
thuc hai tnh khu vc miền núi khó khăn Lai Châu và Kon Tum năm 2012 là
20,8 ± 2,1 kg/m
2
[18].
102 Chƣơng 4 BÀN LUẬN 4.1. Tình trạng thiếu năng lƣợng trƣờng diễn, thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ 20 – 35 tuổi ngƣời dân tộc Tày tại hai xã Hợp Thành và Phủ Lý, huyện Phú Lƣơng, tỉnh Thái Nguyên 585 phụ nữ 20 – 35 tuổi người dân tộc Tày tham gia vào nghiên cứu, cỡ mẫu này đủ cho điều tra trước can thiệp theo thiết kế để tìm hiểu tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu, thiếu sắt và đồng thời đảm bảo việc lựa chọn các đối tượng đủ tiêu chuẩn cho giai đoạn nghiên cứu can thiệp truyền thông giáo dục dinh dưỡng và bổ sung viên sắt/folic tiếp theo. Đối tượng tham gia nghiên cứu có tỷ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 30 – 35 (59,8%), thấp nhất ở nhóm tuổi 20 – 24 (16,6%); trình độ học vấn phần lớn từ trung học phổ thông trở xuống (85,6%); nghề nghiệp chính là làm ruộng (61,3%); số gia đình đối tượng thuộc hộ nghèo là 21,6%. Cân nặng trung bình của phụ nữ tuổi sinh đẻ người dân tộc Tày 48,5 ± 5,9kg cao hơn so với trung bình toàn quốc năm 2010 (46,0kg) và cũng cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Hồ Thu Mai năm 2013 trên phụ nữ tuổi sinh đẻ ở Tân Lạc, Hòa Bình (45,5 ± 4,8 kg), tương đương với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quang Dũng trên phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’Mông tại Bảo Lạc, Cao Bằng là 48,1 ± 5,2kg [10],[11],[34]. Về chiều cao, phụ nữ trong độ tuổi 20 – 35 người dân tộc Tày có chiều cao trung bình 152 ± 5,0cm thấp hơn chiều cao trung bình của nữ trưởng thành Việt Nam 1,3cm (153,3 ± 5,5cm) và cũng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của một số tác giả trong nước khác [34],[105],[106]. BMI trung bình của đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là 20,9 ± 2,3kg/m 2 tương đương với kết quả nghiên cứu của tác giả Trương Hồng Sơn trên phụ nữ tuổi sinh đẻ (18 – 35 tuổi) thuộc hai tỉnh khu vực miền núi khó khăn Lai Châu và Kon Tum năm 2012 là 20,8 ± 2,1 kg/m 2 [18].
103
T l thiếu năng lượng trường din ph n tuổi sinh đ ngưi dân
tộc Tày trên địa bàn nghiên cu là 16,4% và mc trung bình v ý nghĩa
sc khe cộng đng. Kết qu nghiên cu của chúng tôi cao hơn mức trung
bình chung ca c ớc (15,1%) cao hơn đáng kể so vi kết qu nghiên
cu ca mt s tác gi Nguyn Quang Dũng và cộng s năm 2016 trên 144
ph n tuổi sinh đẻ người H’Mông tại huyn Bo Lc, Cao Bng (2,1%);
Trương Hồng Sơn trên 1.538 phụ n tuổi sinh đẻ ti Lai Châu và Kon Tum
(11,7%). S khác bit này do cân nng của đối tượng trong các nghiên cu
gần ơng đương nhau nhưng chiu cao ca ph n trong nghiên cu ca
tác gi Nguyễn Quang Dũng, Trương Hồng Sơn lại thấp hơn (148,5±
4,2cm; 149,8 ± 5,5cm; 152 ± 5,0cm) dẫn đến BMI ca phn ln ph n
tuổi sinh đẻ trên đa bàn hai nghiên cu tiến hành nm trong gii hn bình
thường [10],[18]. So sánh vi kết qu nghiên cu ca mt s c trong
khu vc Châu Á thì t l thiếu năng lượng trường din ph n tui sinh
đẻ trong nghiên cu của chúng tôi cao hơn so vi t l này Indonesia
(9,9%), nhưng thấp hơn khá nhiều so vi Campuchia (20,0%), Ấn Độ
(33,9%), Banglades (38,8%) [24],[25],[27]. Mc t l thiếu năng lượng
trường din ph n 20 35 tui người dân tộc y trên địa bàn nghiên
cu n mc trung nh v ý nghĩa sức khe cộng đồng nhưng i đây
cũng đã một t l nh ph n tui sinh đẻ tha cân (3,6%). vy,
lãnh đạo các ban ngành đoàn thể đặc bit là ngành y tế ti địa phương cn
chú trng nhng chiến lược c th đ phòng chng s gia tăng t l
tha cân béo phì ph n tuổi sinh đ ngưi dân tc Tày.
T l thiếu năng lượng trường din ph n ngưi dân tc Tày gim
dn theo tui, nhóm tui càng cao thì t l này càng thp; nhóm tui 20 24
chiếm t l cao nht 20,4%, tiếp đến nhóm tui 25 29 chiếm 18,2%
thp nht nhóm tui 30 35 chiếm 14,6%. Kết quả nghiên cứu của chúng
103 Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người dân tộc Tày trên địa bàn nghiên cứu là 16,4% và ở mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn mức trung bình chung của cả nước (15,1%) và cao hơn đáng kể so với kết quả nghiên cứu của một số tác giả Nguyễn Quang Dũng và cộng sự năm 2016 trên 144 phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’Mông tại huyện Bảo Lạc, Cao Bằng (2,1%); Trương Hồng Sơn trên 1.538 phụ nữ tuổi sinh đẻ tại Lai Châu và Kon Tum (11,7%). Sự khác biệt này do cân nặng của đối tượng trong các nghiên cứu gần tương đương nhau nhưng chiều cao của phụ nữ trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Dũng, Trương Hồng Sơn lại thấp hơn (148,5± 4,2cm; 149,8 ± 5,5cm; 152 ± 5,0cm) dẫn đến BMI của phần lớn phụ nữ tuổi sinh đẻ trên địa bàn hai nghiên cứu tiến hành nằm trong giới hạn bình thường [10],[18]. So sánh với kết quả nghiên cứu của một số nước trong khu vực Châu Á thì tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với tỷ lệ này ở Indonesia (9,9%), nhưng thấp hơn khá nhiều so với Campuchia (20,0%), Ấn Độ (33,9%), Banglades (38,8%) [24],[25],[27]. Mặc dù tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ 20 – 35 tuổi người dân tộc Tày trên địa bàn nghiên cứu còn ở mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng nhưng nơi đây cũng đã có một tỷ lệ nhỏ phụ nữ tuổi sinh đẻ có thừa cân (3,6%). Vì vậy, lãnh đạo các ban ngành đoàn thể đặc biệt là ngành y tế tại địa phương cần chú trọng và có những chiến lược cụ thể để phòng chống sự gia tăng tỷ lệ thừa cân béo phì ở phụ nữ tuổi sinh đẻ người dân tộc Tày. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ người dân tộc Tày giảm dần theo tuổi, ở nhóm tuổi càng cao thì tỷ lệ này càng thấp; nhóm tuổi 20 – 24 chiếm tỷ lệ cao nhất 20,4%, tiếp đến là nhóm tuổi 25 – 29 chiếm 18,2% và thấp nhất là nhóm tuổi 30 – 35 chiếm 14,6%. Kết quả nghiên cứu của chúng
104
tôi cũng phù hợp với kết quả cuộc điều tra vi chất toàn quốc năm 2014 – 2015
của Viện Dinh dưỡng Quốc gia đó là tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ
nữ tuổi sinh đẻ cao nht nhóm 15 24 tui vi 19,1%, gim dn khi tui
tăng lên, còn 11,4% ở ph n 25 34 tui và 9,5% ph n 35 49 tui [6].
Ở nhóm tuổi thấp là nhóm tuổi mà các đối tượng đang trong giai đoạn lập gia
đình, sinh con và chăm con nhỏ, đồng thời là giai đoạn phải làm việc nhiều do
cuộc sống, điều kiện kinh tế gia đình chưa ổn định vì vậy chế độ ăn uống của
nhóm đối tượng này không được đầy đủ, cân đối, hợp dẫn tới nh trạng
thiếu năng lượng trường diễn; từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe, giảm khả năng,
năng xuất lao động của đối tượng mà đây lực lượng lao động chính trong
gia đình. Khi cơ thể thiếu năng lượng trường diễn cũng tác động tới cơ quan
như giảm sức cơ, chức năng nhận thức, nếu thể bị tổn thương thì vết
thương lâu lành, tăng nguy cơ nhiễm trùng làm tăng chi phí cho quá trình điều
trị. Với những lý do trên cũng lý giải vì sao thiếu năng lượng trường diễn theo
mức đnhẹ, trung bình cũng tập trung chủ yếu nhóm phụ nữ trẻ tuổi hơn
như: thiếu năng lượng trường din mức độ nh nhóm tui 20 24 chiếm t l
cao nht 16,5%; thiếu năng lượng trưng din mức độ trung bình chiếm t l cao
nht nhóm tui 25 29 (5,8%).
Nồng độ Hemoglobin trung bình của đối tượng tham gia nghiên cu
126,6 ± 12,6g/l. Nồng độ Ferritin huyết thanh trung bình 76,9 ± 63,5µg/l.
So sánh vi nghiên cu ca mt s tác gi Nguyễn Quang Dũng và Trần Thúy
Nga trên ph n tuổi sinh đẻ người H’Mông năm 2015, thì kết qu nghiên cu
của chúng tôi cao hơn một chút (122,1 ± 15,3g/l; 74,0 ± 60,7µg/l), kết qu
nghiên cu của chúng tôi cũng cao hơn kết qu nghiên cu của Trương Hồng
Sơn (123,8 ± 16,6g/l; 31,2 ± 18µg/l) nhưng thấp hơn kết qu nghiên cu ca
tác gi Đinh Thị Phương Hoa (130 ± 1,2g/l) [10],[18],[33]. S khác bit này
có th do nhiu nguyên nhân và các yếu t nguy cơ khác nhau chưa được làm
104 tôi cũng phù hợp với kết quả cuộc điều tra vi chất toàn quốc năm 2014 – 2015 của Viện Dinh dưỡng Quốc gia đó là tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ cao nhất ở nhóm 15 – 24 tuổi với 19,1%, giảm dần khi tuổi tăng lên, còn 11,4% ở phụ nữ 25 – 34 tuổi và 9,5% ở phụ nữ 35 – 49 tuổi [6]. Ở nhóm tuổi thấp là nhóm tuổi mà các đối tượng đang trong giai đoạn lập gia đình, sinh con và chăm con nhỏ, đồng thời là giai đoạn phải làm việc nhiều do cuộc sống, điều kiện kinh tế gia đình chưa ổn định vì vậy chế độ ăn uống của nhóm đối tượng này không được đầy đủ, cân đối, hợp lí dẫn tới tình trạng thiếu năng lượng trường diễn; từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe, giảm khả năng, năng xuất lao động của đối tượng mà đây là lực lượng lao động chính trong gia đình. Khi cơ thể thiếu năng lượng trường diễn cũng tác động tới cơ quan như giảm sức cơ, chức năng nhận thức, nếu cơ thể bị tổn thương thì vết thương lâu lành, tăng nguy cơ nhiễm trùng làm tăng chi phí cho quá trình điều trị. Với những lý do trên cũng lý giải vì sao thiếu năng lượng trường diễn theo mức độ nhẹ, trung bình cũng tập trung chủ yếu ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi hơn như: thiếu năng lượng trường diễn mức độ nhẹ nhóm tuổi 20 – 24 chiếm tỷ lệ cao nhất 16,5%; thiếu năng lượng trường diễn mức độ trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 25 – 29 (5,8%). Nồng độ Hemoglobin trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 126,6 ± 12,6g/l. Nồng độ Ferritin huyết thanh trung bình là 76,9 ± 63,5µg/l. So sánh với nghiên cứu của một số tác giả Nguyễn Quang Dũng và Trần Thúy Nga trên phụ nữ tuổi sinh đẻ người H’Mông năm 2015, thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn một chút (122,1 ± 15,3g/l; 74,0 ± 60,7µg/l), kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn kết quả nghiên cứu của Trương Hồng Sơn (123,8 ± 16,6g/l; 31,2 ± 18µg/l) nhưng thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Đinh Thị Phương Hoa (130 ± 1,2g/l) [10],[18],[33]. Sự khác biệt này có thể do nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ khác nhau chưa được làm
105
rõ. Tuy nhiên vấn đ thi gian, khu vc sinh sống khác nhau cũng liên quan
nhiu đến điều kin kinh tế, xã hi của địa phương và gián tiếp nh hưởng đến
chất lượng bữa ăn hang ngày trong đó thành phn các cht dinh dưỡng
tham gia vào quá trình hình thành tế bào hng cầu cũng như tỷ l thiếu máu
nói chung.
Thiếu máu là vấn đề sc khe cộng đồng ảnh hưởng c đến các quc gia
phát triển, đang phát triển và kém phát trin, gây hu qu nng n đối vi sc
khỏe con người cũng như s phát trin kinh tế - xã hi. Thiếu máu đưc gi
“nạn đói tiềm ẩn” vì các triu chng khó phát hin, khi các triu chng biu hin
rm r thành bệnh đặc trưng thì dễ phát hin nhưng sự tăng trưởng c v th cht
và trí tu đã bị ảnh hưởng trong thời gian dài và đôi khi để li nhng hu qu
nghiêm trng không th hi phục được. Thiếu máu dinh dưỡng do nhiu
nguyên nhân gây ra nhưng phổ biến nht vn là thiếu máu do thiếu st (50,0%
thiếu máu là do thiếu st). Thiếu máu xy ra tt c các giai đoạn ca chu kì
vòng đời nhưng thường gp nht ph n thai tr nh. Ph n đ
tuổi sinh đẻ có nguy cơ cao thiếu máu do cn kit st vì mt st trong các chu
kì kinh nguyt. Theo s liu báo cáo dinh dưỡng toàn cầu năm 2017 trên thế
gii có 32,8% ph n tuổi sinh đẻ b thiếu máu [3],[6],[41].
Trong nghiên cu ca chúng tôi, t l thiếu máu ph n người dân tc
Tày độ tui 20 35 25,5% mc trung bình v ý nghĩa sức khe cng
đồng theo phân loi ca WHO. Kết qu nghiên cu này thấp hơn so với
trung bình chung ca thế gii (32,8%), thấp hơn vùng Đông Nam Á (41,9%),
Châu Phi (38,6%) nhưng cao hơn khu vực Châu Âu (22,6%) và Châu M
(16,8%). Điều này được lý gii do Châu Phi và Châu Á là khu vc nghèo nht
nên có th mi liên quan gia thiếu máu và phát trin kinh tế - xã hi. So
sánh vi nghiên cu mt s c trong khu vc, thì t l thiếu máu ph n
tui sinh đẻ trong nghiên cu của chúng tôi cao hơn so với t l này
105 rõ. Tuy nhiên vấn đề thời gian, khu vực sinh sống khác nhau cũng liên quan nhiều đến điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng bữa ăn hang ngày trong đó có thành phần các chất dinh dưỡng tham gia vào quá trình hình thành tế bào hồng cầu cũng như tỷ lệ thiếu máu nói chung. Thiếu máu là vấn đề sức khỏe cộng đồng ảnh hưởng cả đến các quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển, gây hậu quả nặng nề đối với sức khỏe con người cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu máu được gọi là “nạn đói tiềm ẩn” vì các triệu chứng khó phát hiện, khi các triệu chứng biểu hiện rầm rộ thành bệnh đặc trưng thì dễ phát hiện nhưng sự tăng trưởng cả về thể chất và trí tuệ đã bị ảnh hưởng trong thời gian dài và đôi khi để lại những hậu quả nghiêm trọng không thể hồi phục được. Thiếu máu dinh dưỡng do nhiều nguyên nhân gây ra nhưng phổ biến nhất vẫn là thiếu máu do thiếu sắt (50,0% thiếu máu là do thiếu sắt). Thiếu máu xảy ra ở tất cả các giai đoạn của chu kì vòng đời nhưng thường gặp nhất là ở phụ nữ có thai và trẻ nhỏ. Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ có nguy cơ cao thiếu máu do cạn kiệt sắt vì mất sắt trong các chu kì kinh nguyệt. Theo số liệu báo cáo dinh dưỡng toàn cầu năm 2017 trên thế giới có 32,8% phụ nữ tuổi sinh đẻ bị thiếu máu [3],[6],[41]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ người dân tộc Tày độ tuổi 20 – 35 là 25,5% ở mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO. Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với trung bình chung của thế giới (32,8%), thấp hơn vùng Đông Nam Á (41,9%), Châu Phi (38,6%) nhưng cao hơn khu vực Châu Âu (22,6%) và Châu Mỹ (16,8%). Điều này được lý giải do Châu Phi và Châu Á là khu vực nghèo nhất nên có thể có mối liên quan giữa thiếu máu và phát triển kinh tế - xã hội. So sánh với nghiên cứu ở một số nước trong khu vực, thì tỉ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với tỷ lệ này ở
106
Singapore (22,2%), tương đương với Malaysia (24,9%), thấp hơn so với
Cambodia (46,1%) [107],[108]. Điều này cũng phù hợp vi quy lut nhng
c nn kinh tế, văn hóa, các dch v y tế phát triển hơn thì tỷ l thiếu
máu nói chung và ph n tuổi sinh đẻ nói riêng có th thấp hơn.
Kết qu nghiên cu của chúng tôi cũng trùng hợp vi kết qu cuộc điu
tra vi chất dinh dưỡng ca Viện Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2014 2015
t l thiếu máu ph n tuổi sinh đẻ 25,5% [6]. So vi các nghiên cu
vùng min ca Vit Nam thy: T l thiếu máu này thấp hơn kết qu nghiên
cu ca Nguyễn Văn Điệp cng s năm 2017 Bo Lc, Cao Bng khu
vực Đông Bắc B (36,7%); thấp hơn kết qu nghiên cu của Trương Hồng
Sơn hai tnh Lai Châu Kon Tum khu vực Tây Nguyên năm 2012
(35,6%); xp x vi kết qu nghiên cu ca H Thu Mai (2013) ti huyn Tân
Lc, Hòa Bình khu vc Tây Bc B (26,7%); cao hơn kết qu ca Nguyn Th
Lan Phương Bình Dương Thành phố H Chí Minh năm 2014 (20,7%)
[18],[34],[109],[110]. Như vậy, có s khác bit v t l thiếu máu gia các
vùng min với điu kin kinh tế, xã hi, phong tc, tp quán và kh năng tiếp
cn dch v y tế khác nhau. Địa bàn nghiên cu ca chúng tôi nm trong vùng
min núi, nông thôn thuc khu vực Đông Bắc Bcó t l thiếu máu mc
trung bình v ý nghĩa sức khe cộng đồng theo phân loi của WHO, cao hơn
khu vực đồng bng (20,8%) [6].
T l thiếu máu nghiên cu ca chúng tôi (25,5%) hiện đang nằm
trong ngưỡng trung bình chung ca c c nếu s phát trin v kinh tế,
điu kin sống được ci thin và các dch v chăm sóc y tế địa phương ngày
càng tốt hơn thì t l này có th thấp hơn nữa và có th chuyn xung mc ý
nghĩa sức khe cộng đồng thấp trong tương lai.
T l thiếu máu ph n tuổi sinh đẻ theo nhóm tui trong nghiên cu
ca chúng tôi xp x c ba nhóm và không có s khác biệt có ý nghĩa thống
106 Singapore (22,2%), tương đương với Malaysia (24,9%), thấp hơn so với Cambodia (46,1%) [107],[108]. Điều này cũng phù hợp với quy luật ở những nước có nền kinh tế, văn hóa, các dịch vụ y tế phát triển hơn thì tỷ lệ thiếu máu nói chung và ở phụ nữ tuổi sinh đẻ nói riêng có thể thấp hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng trùng hợp với kết quả cuộc điều tra vi chất dinh dưỡng của Viện Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2014 – 2015 tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ là 25,5% [6]. So với các nghiên cứu vùng miền của Việt Nam thấy: Tỷ lệ thiếu máu này thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Điệp và cộng sự năm 2017 ở Bảo Lạc, Cao Bằng khu vực Đông Bắc Bộ (36,7%); thấp hơn kết quả nghiên cứu của Trương Hồng Sơn ở hai tỉnh Lai Châu và Kon Tum khu vực Tây Nguyên năm 2012 (35,6%); xấp xỉ với kết quả nghiên cứu của Hồ Thu Mai (2013) tại huyện Tân Lạc, Hòa Bình khu vực Tây Bắc Bộ (26,7%); cao hơn kết quả của Nguyễn Thị Lan Phương ở Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014 (20,7%) [18],[34],[109],[110]. Như vậy, có sự khác biệt về tỷ lệ thiếu máu giữa các vùng miền với điều kiện kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế khác nhau. Địa bàn nghiên cứu của chúng tôi nằm trong vùng miền núi, nông thôn thuộc khu vực Đông Bắc Bộ và có tỷ lệ thiếu máu ở mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO, cao hơn khu vực đồng bằng (20,8%) [6]. Tỷ lệ thiếu máu ở nghiên cứu của chúng tôi (25,5%) hiện đang nằm trong ngưỡng trung bình chung của cả nước và nếu sự phát triển về kinh tế, điều kiện sống được cải thiện và các dịch vụ chăm sóc y tế ở địa phương ngày càng tốt hơn thì tỷ lệ này có thể thấp hơn nữa và có thể chuyển xuống mức ý nghĩa sức khỏe cộng đồng thấp trong tương lai. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ theo nhóm tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi xấp xỉ ở cả ba nhóm và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
107
kê vi p>0,05. T l thiếu máu các nhóm tui 20 24, 25 29, 30 35 ln
t là 25,5%, 26,3%, 25,1%. Kết qu v t l thiếu máu theo nhóm tui trong
nghiên cu ca chúng tôi có khác bit so vi kết lun ca mt s tác gi trong
ớc khác [10],[18]. Điều này có th do s khác bit v thời gian, điều kin
kinh tế và khu vc sinh sng khác nhau của đối tượng các nghiên cu.
V mức độ thiếu máu, thiếu máu nh ph n người dân tc y
chiếm t l cao nht 21,7%, thiếu máu mức độ trung bình chiếm 3,8%,
không trường hp nào thiếuu nng. Xu hướng này cũng phù hp vi
các kết qu nghiên cu trên ph n tuổi sinh đẻ ca mt s tác gi trong nước
là thiếu máu mc độ nh ph biến nht, tiếp đến là thiếu máu va và không
trường hp thiếu máu mức độ nặng [10],[18],[33]. Đây sở cho vic
la chn các gii pháp can thip phù hợp để ci thin tình trng thiếu máu
cộng đồng trong đó cải thin chế độ ăn uống b sung viên st/acid folic
(với phác đồ 1 viên st/acid folic/tun) mt trong nhng gii pháp quan
trng [33].
Thiếu máu dinh dưỡng có th gây ra bi thiếu mt hay nhiu cht dinh
ng cn thiết cho quá trình tạo máu như sắt, acid folic (vitamin B9),
vitamin B12, vitamin B6, vitamin B2 (Riboflavin) …, nhưng quan trọng
ph biến nht các nước đang phát triển là thiếu máu do thiếu st [3],[48].
St thành phn quan trng ca Hemoglobin, Myoglobin, Cytocrom
oxytdase, Peroxydase, Catalase. Trong th 65% st trong Hemoglobin,
4% trong Myoglobin, 0,1% gn vi Transferrin trong huyết tương, 15 30%
d tr trong h thng liên võng ni các tế bào nhu của gan dưới
dng Ferritin. St cùng vi protein to thành huyết sc t, yếu t vn
chuyn O
2
CO
2
. Sắt cũng tham gia vào quá trình bit hóa hng cu t tế
bào non trong tủy xương. Khi hồng cu già chết, sắt được thu gi i dng
Ferritin Hemosiderin gan lách được chuyển đến tủy xương để to
107 kê với p>0,05. Tỷ lệ thiếu máu ở các nhóm tuổi 20 – 24, 25 – 29, 30 – 35 lần lượt là 25,5%, 26,3%, 25,1%. Kết quả về tỷ lệ thiếu máu theo nhóm tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi có khác biệt so với kết luận của một số tác giả trong nước khác [10],[18]. Điều này có thể do sự khác biệt về thời gian, điều kiện kinh tế và khu vực sinh sống khác nhau của đối tượng ở các nghiên cứu. Về mức độ thiếu máu, thiếu máu nhẹ ở phụ nữ người dân tộc Tày chiếm tỷ lệ cao nhất 21,7%, thiếu máu mức độ trung bình chiếm 3,8%, không có trường hợp nào thiếu máu nặng. Xu hướng này cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu trên phụ nữ tuổi sinh đẻ của một số tác giả trong nước là thiếu máu ở mức độ nhẹ phổ biến nhất, tiếp đến là thiếu máu vừa và không có trường hợp thiếu máu mức độ nặng [10],[18],[33]. Đây là cơ sở cho việc lựa chọn các giải pháp can thiệp phù hợp để cải thiện tình trạng thiếu máu ở cộng đồng trong đó cải thiện chế độ ăn uống và bổ sung viên sắt/acid folic (với phác đồ 1 viên sắt/acid folic/tuần) là một trong những giải pháp quan trọng [33]. Thiếu máu dinh dưỡng có thể gây ra bởi thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu như sắt, acid folic (vitamin B9), vitamin B12, vitamin B6, vitamin B2 (Riboflavin) …, nhưng quan trọng và phổ biến nhất ở các nước đang phát triển là thiếu máu do thiếu sắt [3],[48]. Sắt là thành phần quan trọng của Hemoglobin, Myoglobin, Cytocrom oxytdase, Peroxydase, Catalase. Trong cơ thể 65% sắt ở trong Hemoglobin, 4% trong Myoglobin, 0,1% gắn với Transferrin trong huyết tương, 15 – 30% dự trữ trong hệ thống liên võng nội mô và các tế bào nhu mô của gan dưới dạng Ferritin. Sắt cùng với protein tạo thành huyết sắc tố, là yếu tố vận chuyển O 2 và CO 2 . Sắt cũng tham gia vào quá trình biệt hóa hồng cầu từ tế bào non trong tủy xương. Khi hồng cầu già chết, sắt được thu giữ dưới dạng Ferritin và Hemosiderin ở gan và lách được chuyển đến tủy xương để tạo
108
hng cu mi [42]. Vì vậy khi cơ thể thiếu st do bt nguyên nhân nào s
có nguy cơ dn ti thiếu máu ảnh hưởng ti chức năng của các cơ quan có
s tham gia ca st vào cu trúc.
Trong nghiên cu ca chúng tôi, ph n trong độ tui 20 35 người
dân tc Tày có tình trng thiếu máu nguyên nhân do thiếu st chiếm mt t l
cao 45,6% cao hơn kết qu điu tra vi cht ca Viện Dinh dưỡng Quc gia
giai đoạn 2014 2015 t l thiếu máu do thiếu st ph n không mang thai
là 37,7% [6]. Kết qu nghiên cu ca chúng tôi trùng hp kết qu nghiên cu
ca mt s tác gi như Lê Minh Chính năm 2010 trên phụ n ngưi dân tc
Sán Dìu ti huyện Đồng H, Thái Nguyên t l thiếu máu thiếu st là 42,7%;
tác gi Nguyễn Quang Dũng năm 2015 tại Bo Lc, Cao Bng t l y
trên 40% [9],[10]. kết luận đưa ra ca WHO, trên thế gii 1/2 s các
trường hp thiếu máu nguyên nhân do thiếu st [3]. Bên cạnh đó, nhng
đối tượng không thiếu máu nhưng tình trng thiếu d tr sắt cũng chiếm
mt t l cao 54,4% nếu những đối tượng này không được can thiệp để ci
thin tình trng d tr st kp thi thông qua ci thin chế độ ăn uống, s
dng các loi thc phẩm có tăng cường st hoc ung b sung viên st s
nguy cơ dẫn ti tình trng thiếu máu do thiếu st.
Trong nghiên cu của chúng tôi chưa tìm thy s khác bit ý nghĩa
thng gia nhóm thiếu máu nhóm không thiếu máu nhng ph n
thiếu năng lượng trường din. Tuy nhiên, t kết qu nghiên cứu thu được
cũng cho thấy rng t l thiếu máu những đối tượng nghiên cu thiếu
năng lượng trường din chiếm t l cao hơn (33,3%) những đối tượng không
thiếu năng lượng trường din (23,9%). Thiếu năng lượng trường din hu
qu ca một quá trình đối tượng có mức năng lượng ăn vào thấp hơn so với
nhu cu của cơ thể trong mt thi gian dài. Theo nghiên cu ca tác gi Đinh
Phương Hoa trên phụ n tuổi sinh đẻ đã cho thấy rng mức năng lượng tiêu
108 hồng cầu mới [42]. Vì vậy khi cơ thể thiếu sắt do bất kì nguyên nhân nào sẽ có nguy cơ dẫn tới thiếu máu và ảnh hưởng tới chức năng của các cơ quan có sự tham gia của sắt vào cấu trúc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, phụ nữ trong độ tuổi 20 – 35 người dân tộc Tày có tình trạng thiếu máu nguyên nhân do thiếu sắt chiếm một tỷ lệ cao 45,6% cao hơn kết quả điều tra vi chất của Viện Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2014 – 2015 tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ không mang thai là 37,7% [6]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trùng hợp kết quả nghiên cứu của một số tác giả như Lê Minh Chính năm 2010 trên phụ nữ người dân tộc Sán Dìu tại huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 42,7%; tác giả Nguyễn Quang Dũng năm 2015 tại Bảo Lạc, Cao Bằng tỷ lệ này là trên 40% [9],[10]. Và kết luận đưa ra của WHO, trên thế giới 1/2 số các trường hợp thiếu máu có nguyên nhân do thiếu sắt [3]. Bên cạnh đó, những đối tượng không có thiếu máu nhưng tình trạng thiếu dự trữ sắt cũng chiếm một tỷ lệ cao 54,4% nếu những đối tượng này không được can thiệp để cải thiện tình trạng dự trữ sắt kịp thời thông qua cải thiện chế độ ăn uống, sử dụng các loại thực phẩm có tăng cường sắt hoặc uống bổ sung viên sắt sẽ có nguy cơ dẫn tới tình trạng thiếu máu do thiếu sắt. Trong nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm thiếu máu và nhóm không thiếu máu ở những phụ nữ thiếu năng lượng trường diễn. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu thu được cũng cho thấy rằng tỷ lệ thiếu máu ở những đối tượng nghiên cứu có thiếu năng lượng trường diễn chiếm tỷ lệ cao hơn (33,3%) những đối tượng không thiếu năng lượng trường diễn (23,9%). Thiếu năng lượng trường diễn là hậu quả của một quá trình đối tượng có mức năng lượng ăn vào thấp hơn so với nhu cầu của cơ thể trong một thời gian dài. Theo nghiên cứu của tác giả Đinh Phương Hoa trên phụ nữ tuổi sinh đẻ đã cho thấy rằng mức năng lượng tiêu