Luận án Tiến sĩ: Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng và bổ sung viên sắt trên phụ nữ độ tuổi 20 đến 35 tuổi người dân tộc Tày tại một số xã huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
2,432
590
153
Bảng 3.29. Thay đổi chỉ số nhân trắc của đối tượng nghiên cứu sau 6
tháng can thiệp
........................................................................ 97
Bảng 3.30. Hiệu quả đối với tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn của đối
tượng sau 6 tháng can thiệp ....................................................
99
Bảng 3.31. Thay đổi nồng độ Hemoglobin và Feritin huyết thanh trung
bình của đối tượng nghiên cứu sau 6 tháng can thiệp ............ 99
Bảng 3.32. Hiệu quả can thiệp đến sự thay đổi tỷ lệ thiếu máu và dự trữ
sắt cạn kiệt của đối tượng nghiên cứu .................................. 100
Bảng 3.33. Hiệu quả đối với tỷ lệ thiếu máu và dự trữ sắt thấp của đối
tượng sau 6 tháng can thiệp ..................................................
101
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Mối liên quan giữa thiếu sắt và thiếu máu thiếu sắt trong quần thể 9
Hình 1.2. Bản đồ huyện Phú Lương
......................................................... 42
Hình 3.1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu .................... 66
Hình 3.2. Tình trạng thiếu máu thiếu sắt của đối tượng nghiên cứu ........ 69
Hình 3.3. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu đã được truyền thông về thiếu máu
dinh dưỡng
................................................................................
76
Hình 3.4. Hiệu quả can thiệp đến sự thay đổi tỷ lệ thiếu năng lượng
trường diễn của đối tượng nghiên cứu ...................................... 98
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu dinh dưỡng hiện đang là vấn đề thời sự, có ý nghĩa sức khỏe
cộng đồng tại các nước nghèo [1],[2]. Thiếu máu làm giảm khả năng lao động
ở người lớn, giảm khả năng, năng lực học tập và nhận thức ở trẻ em. Ở phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ thiếu máu là nguy cơ hàng đầu làm gia tăng tỷ lệ suy
dinh dưỡng bào thai cũng như các tai biến sản khoa [2],[3],[4],[5]. Thống kê
năm 2011 của Tổ chức Y tế thế giới có khoảng 528,7 triệu phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ bị thiếu máu chiếm 29,4% [3]. Tại Việt Nam, theo điều tra vi chất
2014 – 2015 của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy thiếu máu ở phụ nữ tuổi
sinh đẻ vẫn còn ở mức cao 25,5% trong đó tập trung cao hơn ở miền núi và
nông thôn (27,9%; 26,3%) và thấp hơn ở khu vực đồng bằng 20,8% [6].
Đồng bào dân tộc thiểu số hiện đang sống ở vùng miền núi và vùng sâu
vùng xa của miền Bắc, Tây Nguyên cũng như khu vực đồng bằng sông Mê
Kông thường có mức sống thấp hơn, chế độ dinh dưỡng kém hơn so với dân
tộc Kinh. Có tới 66,3% đồng bào các dân tộc thiểu số phải đối mặt với nạn
nghèo đói. Trong khi chỉ có 12,9% dân tộc Kinh có mức sống thấp [7]. Trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số, phụ nữ đặc biệt là phụ nữ tuổi sinh đẻ thường
bị ảnh hưởng bởi nghèo đói nhiều hơn nam giới, do nhiều nguyên nhân. Ở
nhiều dân tộc thiểu số, phụ nữ không có quyền ra quyết định đối với những
quyền lợi tối thiểu cho cuộc sống của mình. Một nguyên nhân khác cũng
thường gặp là do trình độ học vấn còn thấp nên họ ít có cơ hội tiếp cận với
khoa học kỹ thuật cũng như các dịch vụ y tế. Các lý do trên khiến họ trở thành
những người nghèo nhất trong số những người nghèo sẽ là nguy cơ ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe trong đó có thiếu dinh dưỡng.
Một số nghiên cứu cho thấy thực trạng thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
người dân tộc thiểu số vẫn ở mức cao. Năm 2008 tại tỉnh Đăk Lăk, theo
2
nghiên cứu của Đặng Oanh và cộng sự có 50,1% phụ nữ có thai người dân tộc
thiểu số thiếu máu dinh dưỡng [8]. Một nghiên cứu tại Thái Nguyên ghi nhận
tỷ lệ 42,7% phụ nữ mang thai người dân tộc Sán Dìu bị thiếu máu dinh dưỡng
[9]. Tại huyện Bảo Lạc, Cao Bằng năm 2015 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
người H’Mông tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng là 31,9% [10]. Tuy nhiên các
nghiên cứu về thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ người dân tộc Tày trong độ
tuổi sinh đẻ còn khá khiêm tốn.
Ở nước ta có 1.626.392 người thuộc dân tộc Tày, chiếm 1,9% dân số.
Dân tộc Tày ở Thái Nguyên, chiếm tỷ lệ 11,0% dân số toàn tỉnh, chủ yếu sống
ở các vùng nông thôn, miền núi [11]. Ở huyện miền núi Phú Lương người Tày
chiếm 21,1% dân số toàn huyện [12]. Những khó khăn về kinh tế, xã hội của
cộng đồng người Tày nơi đây luôn là những yếu tố nguy cơ thường trực đối
với sức khỏe phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ tuổi sinh đẻ. Tình trạng thiếu năng
lượng trường diễn, thiếu máu dinh dưỡng ở cộng đồng phụ nữ người dân tộc
Tày ra sao? Có giải pháp nào có thể can thiệp cải thiện tình trạng sức khỏe nói
chung, giảm thiểu tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ tuổi sinh đẻ? Là các
câu hỏi để đề tài: “Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp bằng truyền thông
giáo dục dinh dƣỡng và bổ sung viên sắt trên phụ nữ độ tuổi 20 đến 35 tuổi
ngƣời dân tộc Tày tại một số xã huyện Phú Lƣơng, tỉnh Thái Nguyên” được
tiến hành nhằm đáp ứng 3 mục tiêu.
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Xác định tỉ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu thiếu sắt ở phụ
nữ dân tộc Tày 20-35 tuổi tại xã Hợp Thành và Phủ Lý, huyện Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên, năm 2017.
2. Xây dựng giải pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng
và bổ sung viên sắt /acid folic cho đối tượng này.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng
và bổ sung viên sắt /acid folic hàng tuần lên tình trạng dinh dưỡng và thiếu
máu thiếu sắt trên phụ nữ dân tộc Tày 20-35 tuổi tại xã Hợp Thành, huyện
Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, năm 2017 – 2018.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu ở
phụ nữ tuổi sinh đẻ tại Việt Nam
1.1.1. Thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
1.1.1.1. Khái niệm, phương pháp đánh giá thiếu năng lượng trường diễn
* Khái niệm thiếu năng lượng trường diễn
Thiếu năng lượng trường diễn (CED) là tình trạng mà một cá thể ở trạng
thái thiếu cân bằng giữa năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao dẫn đến
cân nặng và dự trữ năng lượng của cơ thể thấp. Những người thiếu năng
lượng trường diễn có chuyển hoá năng lượng thấp hơn bình thường và giảm
hoạt động thể lực dẫn đến khẩu phần ăn vào thấp hơn bình thường [13].
* Phương pháp đánh giá tình trạng thiếu năng lượng trường diễn
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra khái niệm chỉ số khối cơ thể
(Body Mass Index - BMI) để đánh giá CED của người trưởng thành. BMI có
liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mỡ trong cơ thể và được tính bằng [14]:
BMI =
Cân nặng (kilogam)
(Chiều cao)
2
(met)
Từ năm 1994, WHO đã đưa ra khuyến nghị cách phân loại CED của
người trưởng thành mức cá thể dựa vào BMI như sau (kg/m
2
) [13],[14],[15]:
+ Bình thường: BMI từ 18,5 đến 24,9
+ Gầy độ I: BMI từ 17,0 đến 18,4
+ Gầy độ II: BMI từ 16,0 đến 16,9
+ Gầy độ III: BMI < 16,0
Để đánh giá mức độ CED trên quần thể, WHO cũng đã đưa ra ngưỡng
đánh giá về mặt ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng như sau [13]:
5
+ Mức độ nhẹ: Tỷ lệ CED 5,0 – 9,0%
+ Mức độ trung bình: Tỷ lệ CED 10,0 – 19,0%
+ Mức độ nặng: Tỷ lệ CED 20,0 – 39,0%
+ Mức độ rất nặng: Tỷ lệ CED ≥ 40,0%
1.1.1.2. Nguyên nhân và hậu quả của thiếu năng lượng trường diễn
* Nguyên nhân của thiếu năng lượng trường diễn
CED ở phụ nữ tuổi sinh đẻ (PNTSĐ) bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Vấn
đề thiếu an ninh lương thực cấp quốc gia và cấp hộ gia đình dẫn đến thiếu đói
cả về số lượng và chất lượng thực phẩm là yếu tố đe dọa đến tình trạng dinh
dưỡng của phụ nữ, trẻ em ở các nước nghèo, các nước đang phát triển. Tình
trạng tái diễn liên tục các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm ký sinh trùng cùng với
thiếu dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng bệnh tật và khó khăn
trong việc tiếp cận dịch vụ y tế cũng là những vấn đề đáng quan tâm. Gánh
nặng về công việc gia đình và tình trạng bất bình đẳng giới ở những nước
nghèo và đang phát triển càng đẩy tình trạng dinh dưỡng của người phụ nữ
ngày một nghiêm trọng thêm [16],[17].
* Hậu quả của thiếu năng lượng trường diễn
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng bà mẹ bị CED trước khi có thai sẽ ảnh
hưởng tới cân nặng và chiều dài của trẻ sơ sinh [17],[18],[19],[20].
Gánh nặng bệnh tật đặc biệt là bệnh nhiễm trùng vừa là nguyên nhân,
vừa là hậu quả của CED ở phụ nữ. Bệnh tật gây ra tình trạng CED và CED
gây ra bệnh tật và làm tăng mức độ trầm trọng của bệnh. Các bệnh phải kể
đến là sốt rét, giun sán, tiêu chảy… là những bệnh mà người phụ nữ ở những
nước kém phát triển thường phải trải qua nhiều lần.
CED làm giảm khả năng lao động ở người trưởng thành. Trong khi nam
giới và phụ nữ là trụ cột lao động chính trong gia đình, xã hội thì thiếu dinh
dưỡng là yếu tố cản trở đến khả năng lao động chân tay, trí óc dẫn đến giảm
thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. CED gây tăng nguy cơ tử vong mẹ
và cũng làm tăng nguy cơ tử vong ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ [1],[21].
6
1.1.1.3. Tình hình thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trên thế
giới và tại Việt Nam
* Tình hình thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trên thế giới
Theo báo cáo của ACC/SCN năm 1992, tỷ lệ CED ở PNTSĐ từ 15 – 49
tuổi cao nhất ở Châu Á trên 40,0%. Tỷ lệ này ở khu vực Nam Phi là 22,4% và
thấp nhất là khu vực Nam Mỹ là 7,2% [22].
Đến năm 2009, Nam Á vẫn là khu vực có tỷ lệ CED cao nhất. Ấn Độ là
một trong những quốc gia có tỷ lệ PNTSĐ bị CED thuộc diện cao nhất trên
thế giới và khu vực Nam Á. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ CED ở Ấn Độ
là 33,9%, ở mức độ nặng về ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng [23],[24]. Banglades
cũng là một quốc gia thuộc khu vực Nam Á có tỷ lệ phụ nữ bị CED ở mức
cao 38,8% [25].
Tình trạng dinh dưỡng ở PNTSĐ tại khu vực Đông Nam Á trong thời
gian qua cũng được cải thiện đáng kể như: tại Indonesia tỷ lệ này còn 9,9%
năm 2014, ở Campuchia là 20,0% [26], [27].
Châu Phi là châu lục có tỷ lệ CED ở PNTSĐ khá thấp. Kết quả phân tích
số liệu điều tra dinh dưỡng đại diện cho 26 quốc gia từ năm 1995 – 2006 cho
thấy tỷ lệ CED ở PNTSĐ khoảng từ 6,0% – 11,0% [28]. Hầu hết các quốc gia
đều có tỷ lệ CED dưới 20,0%, nhưng trong số đó, cộng hoà Công Gô,
Ethiopia, Nizeria, Zambia có tỷ lệ này trên 20,0%. Đặc biệt Ethiopia có tỷ lệ
CED ở PNTSĐ trên 40,0% và ở mức độ rất nặng về ý nghĩa sức khỏe cộng
đồng theo phân loại của WHO [29].
1.1.3.2. Tình hình thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ tại Việt
Nam
Việt Nam đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp và chịu gánh nặng kép về
suy dinh dưỡng. Bên cạnh việc gia tăng tỷ lệ thừa cân béo phì thì CED vẫn là
vấn đề có ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng.
Theo kết quả điều tra, giám sát của Viện Dinh dưỡng, tỉ lệ CED ở PNTSĐ
đã giảm từ 26,7% năm 2000 xuống còn 22,7% năm 2005; 20,2% năm 2010 và
7
15,1% năm 2014 [6],[30]. Từ năm 2000 đến năm 2014 giảm 11,6%, mỗi năm
giảm trung bình 0,83%. Tỉ lệ CED ở PNTSĐ Việt Nam vẫn ở mức trung bình về
ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO.
Tỉ lệ CED ở PNTSĐ năm 2014 ở nước ta là 15,1%, khác nhau ở các
nhóm tuổi, cao nhất ở nhóm 15 – 24 tuổi chiếm 19,1%, giảm dần khi tuổi tăng
lên, còn 11,4% ở phụ nữ 25 – 34 tuổi và 9,5% ở phụ nữ 35 – 49 tuổi. Tỉ lệ
CED ở PNTSĐ sống ở vùng nông thôn (16,3%) cao hơn ở PNTSĐ sống ở
thành thị (12,1%) và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nếu xét theo dân tộc, tỉ
lệ CED ở PNTSĐ là người Kinh (14,9%) thấp hơn so với ở PNTSĐ thuộc các
dân tộc ít người (15,8%) [6].
Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của PNTSĐ trong những
năm qua cũng cho thấy tỷ lệ CED ở phụ nữ lứa tuổi này vẫn còn ở mức độ
nặng về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo phân loại của WHO tại nhiều địa
phương khác nhau. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tú Anh năm 2012 trên
nhóm đối tượng công nhân nữ từ 18 – 45 tuổi cũng là những đối tượng thuộc
nhóm PNTSĐ đang làm việc tại nhà máy giày da và nhà máy may Shewwon
tỉnh Vĩnh Phúc thì tỷ lệ CED là 37,7% [31]. Nghiên cứu của tác giả Lê Danh
Tuyên cũng cho thấy PNTSĐ từ 20 – 35 tuổi tại một số xã thuộc miền núi
phía Bắc Việt Nam có tỷ lệ CED là 25,0% [32].
Theo nghiên cứu của Đinh Thị Phương Hoa và cộng sự tại 6 xã của
huyện Lục Nam, Bắc Giang, tỷ lệ CED ở PNTSĐ ở đây vẫn ở mức rất cao
39,1% [33]. Nghiên cứu của tác giả Hồ Thu Mai tại huyện Tân Lạc, Hòa Bình
tỷ lệ CED ở PNTSĐ là 29,2% [34]. Một nghiên cứu khác của Văn Quang Tân
đánh giá về tình trạng dinh dưỡng ở PNTSĐ tại tỉnh Bình Dương cho thấy tỷ
lệ CED ở đây là 28,4% [19].
Lai Châu và Kontum là 2 tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em cao nhất
toàn quốc nhưng theo nghiên cứu của tác giả Trương Hồng Sơn năm 2012 thì
8
tỷ lệ CED ở PNTSĐ tại 2 tỉnh này ở mức tương đối thấp (9,2% và 14,7%)
[18]. Điều này được lý giải là do cân nặng, chiều cao của PNTSĐ nơi đây đều
thấp dẫn đến BMI của đối tượng ở trong giới hạn bình thường. Nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Quang Dũng năm 2016 trên PNTSĐ người dân tộc
H’Mông tại huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng cũng cho kết quả tương tự [10].
Năm 2017, tác giả Hoàng Thu Nga đã tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu
tình trạng CED trên 144 PNTSĐ tại huyện Cẩm Khê, Phú Thọ cho thấy tỷ lệ
CED của phụ nữ nơi đây là 24,7% [35].
Nhìn chung tình trạng CED trên đối tượng PNTSĐ ở nước ta trong
những năm qua đã có xu hướng giảm nhưng tỷ lệ giảm hàng năm chậm và
không đồng đều giữa các vùng sinh thái. Mặc dù chưa tìm thấy mối liên quan
giữa CED với thiếu máu dinh dưỡng nhưng đã có nghiên cứu chỉ ra rằng
những PNTSĐ có mức năng lượng tiêu thụ thấp trong khẩu phần hàng ngày
(nguyên nhân dẫn tới CED) có liên quan tới tình trạng thiếu máu [33].
1.1.2. Thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ tuổi sinh đẻ
1.1.2.1. Khái niệm và phương pháp đánh giá tình trạng thiếu máu dinh dưỡng
* Một số khái niệm về thiếu máu dinh dưỡng
Thiếu máu: Là sự giảm sút khối lượng hồng cầu hoặc huyết sắc tố trong
máu tuần hoàn. Số lượng hồng cầu < 3 triệu/ml máu, lượng Hemoglobin (Hb) <
12g/dl, Hematocrit (Hct) < 36% ở nữ [2],[36].
Thiếu máu dinh dưỡng:
- Thiếu máu dinh dưỡng (TMDD) là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm
lượng Hb trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một hay nhiều chất
dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu bất kể lý do gì [37]. Trong đó hay
gặp nhất là thiếu máu do nguyên nhân thiếu sắt. Tổ chức Y tế thế giới cũng đã
đưa ra mối liên quan giữa thiếu máu và thiếu sắt trên quần thể được thể hiện
trong hình 1 dưới đây: