Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
8,201
110
81
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
20
sản xuất trong nước, nhưng cũng có thể là do phía đối tác nước ngoài đặt gia
công. Đối tác nước ngoài có thể là các nhà phân phối trực tiếp tại nước đó,
cũng có thể là các nhà phân phối trung gian.
(2) Xúc tiến xây dựng hệ thống phân phối ở nước ngoài để có thể phân
phối hàng hoá trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Điển hình cho hình thức này
là các doanh nghiệp Việt Nam ở Đông Âu. Hoặc thông qua việc thành lập các
văn phòng đại diện xúc tiến thương mại cho hàng Việt Nam ở các nước.
Một hình thức xuất khẩu mà các DNNVV đang hướng tới đó là: hình
thức nhượng quyền thương mại như của Trung Nguyên hay Kinh Đô. Các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ được quyền kinh doanh các hàng hoá có nhãn
hiệu Việt Nam tại nước ngoài.
II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA DNNVV Ở VIỆT NAM
1. Về vốn và công nghệ
1.1. Tiềm lực vốn hạn chế
* Quy mô vốn đăng ký của các DNNVV
Các DNNVV tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô vốn của các
DNNVV trong những năm gần đây lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2
tỷ đồng/doanh nghiệp.
Qua khảo sát, điều tra hơn 63 ngàn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía
Bắc cho thấy: Số vốn của các DNNVV còn rất thấp: khoảng 50% doanh
nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% doanh nghiệp có số vốn dưới 2 tỷ
đồng và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng.
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động, các số liệu
thống kê cho thấy, tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 30 lao động. Như
vậy, quy mô vốn và lao động của DNNVV còn quá nhỏ so với quy mô
doanh nghiệp thông thường của các nước phát tr iển và có nền kinh tế mới
nổi. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn
toàn vào WTO.
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
21
* Khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính còn hạn chế
Việc tiếp cận các nguồn lực tài chính với các DNNVV gặp phải nhiều
khó khăn, hạn chế: vốn huy động từ các dự án hay nguồn tài trợ của nước
ngoài là rất khan hiếm; vốn huy động từ thị trường chứng khoán thì các
DNNVV không đủ điều kiện. Chính vì vậy, DNNVV chỉ có thể tiếp cận
nguồn vốn tín dụng duy nhất là vốn tín dụng ngân hàng để mở rộng sản xuất
và phát triển hoạt động kinh doanh. Nhưng việc tiếp cận vốn tín dụng của các
ngân hàng đang gặp nhiều trở ngại. Theo điều tra về thực trạng DNNVV của
Cục phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chỉ có 32,28% các DNNVV có khả
năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng còn lại các DNNVV rất khó hoặc
không thể tiếp cận được vốn ngân hàng.
Có nhiều nguyên nhân khiến các DNNVV gặp khó khăn trong việc tiếp
cận với các nguồn tín dụng, trong số đó, có thể kể ra một số nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
(1) Thông tin của các DNNVV thường không minh bạch, việc lập kế
hoạch tài chính cũng như lập các báo cáo tài chính thiếu chính xác, không
trung thực.
(2) Chủ yếu các DNNVV không có tài sản làm đảm bảo vay vốn. Mặt
khác, việc chuyển giao quyền sở hữu về vốn góp bằng tài sản chưa rõ ràng,
minh bạch gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định tài chính,
thẩm định tài sản đảm bảo.
(3) Năng lực quản trị điều hành của các chủ DNNVV kém. Việc lập
kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh thiếu tính chuyên nghiệp.
(4) Các DNNVV thiếu điều kiện tiếp cận công nghệ, chưa ứng dụng
được công nghệ mới, các sản phẩm đưa ra thị trường thiếu tính cạnh tranh.
(5) Chưa có khă năng liên kết, hợp tác giữa các DNNVV với nhau,
với các hiệp hội, với phòng thương mại,…Tính thực thi các chính sách hỗ trợ
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
22
của Chính phủ còn hạn chế. Dẫn đến năng lực cạnh tranh của các DNNVV
kém.
Đó là những lý do mà trong thời gian qua các ngân hàng chưa dám đẩy
mạnh đầu tư cho vay vào cộng đồng các DNNVV vì sợ rủi ro cao.
1.2. Trình độ công nghệ lạc hậu
Xuất phát từ đặc trưng quy mô vốn nhỏ nên các doanh nghiệp hầu như
bị hạn chế trong việc đầu tư công nghệ và trang thiết bị hiện đại. Có tới 57%
doanh nghiệp cho rằng họ sử dụng thiết bị công nghệ trung bình. Tỷ lệ đổi
mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5 – 7% so với
20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với
định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu
vào, cao hơn 30 – 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất
lượng sản phẩm giảm.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy,
tuy số DNNVV có sử dụng máy tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55%
doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ LAN, số doanh nghiệp có website là
rất thấp, chỉ 2,16%. Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia
thương mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp còn
thấp, không đáp ứng được yêu cầu hội nhập hiện nay.
Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý: trong khi trình độ về kỹ thuật
công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của
DNNVV có tỷ lệ rất thấp, chỉ có 5,65% DNNVV có nhu cấu về đào tạo công
nghệ. Điều này cho thấy các DNNVV chưa coi trọng đúng mức đến các vấn
đề về kỹ thuật và công nghệ, mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của
doanh nghiệp trên thương trường.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNVV Việt Nam
về trình độ kỹ thuật, công nghệ trong đó có cả nguyên nhân chủ quan từ phía
doanh nghiệp và nguyên nhân khách quan từ phía Nhà nước.
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
23
(1) Vốn đầu tư của các DNNVV rất thấp so với vốn đầu tư của các
loại hình doanh nghiệp khác, lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín
dụng trung hạn và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư, nâng cấp công nghệ.
(2) Các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường
quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc và thiết bị, đồng thời cũng thiếu
sự chủ động cần thiết trong việc tiếp cận những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ
trong việc xác định công nghệ tương xứng và thích hợp với khả năng tài chính
nhằm hoàn thiện trình độ sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của mình.
(3) Một số nguyên tắc, chính sách và thủ tục hiện hành đang làm cho
việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam gặp nhiều khó khăn
và gây tốn kém cho tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV: việc nhập
khẩu máy móc và thiết bị phải chịu các mức thuế suất cao, các hợp đồng
chuyển giao công nghệ phải được Chính phủ phê chuẩn cho từng trường hợp,
kết hợp với những thủ tục phê chuẩn phiền hà, mất nhiều thời gian.
2. Về quản lý và nguồn nhân lực
2.1. Quản lý
* Về trình độ chuyên môn thấp
Theo kết quả điều tra về nhu cầu trợ giúp của DNNVV do Cục phát
triển DNNVV tiến hành thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân
viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào
đã có kinh nghiệm trong sản xuất, một số ít có tay nghề và hiểu biết về quản
lý kinh tế. Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động
trong khu vực kinh tế cá thể, tư nhân. Khoảng 10% là sinh viên các trường
trung học, đại học có vốn hoặc vay vốn tự lập doanh nghiệp sản xuất hoặc
kinh doanh.
Theo số liệu thống kê của một cuộc điều tra quy mô được Cục phát
triển DNNVV (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn
63.000 doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc, có tới 55,63% số chủ doanh
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
24
nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống. Trong đó, 43,3% chủ
doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số
người là tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%; thạc sĩ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học
37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên
nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Hơn nữa, chỉ có 7%
trong số chủ doanh nghiệp được đào tạo phù hợp với nghề hoạt động sản xuất
kinh doanh.
* Thiếu năng lực quản lý doanh nghiệp
Nhìn chung, đa số các chủ DNNVV còn thiếu kién thức và kinh nghiệm
quản lý trong nền kinh tế thị trường. Số chủ doanh nghiệp là cán bộ quản lý các
DNNN ra thì thường làm theo lối quản lý cũ, độc đoán và chuyên quyền, không
phù hợp với sự linh hoạt của thị trường. Trong khi đó, số chủ doanh nghiệp là tư
nhân thì có trình đọ học vấn thấp và thiếu kinh nghiệm trong quản lý. Điều đáng
chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay cả những người có trình độ học vấn từ
cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh
doanh
và quản trị doanh nghiệp. Trong khi đó, các khoá đào tạo quản lý cho các chủ
doanh nghiệp thường rất đắt và bản thân các chủ doanh nghiệp vì quá bận rộn nên
cũng ít quan tâm và đầu tư thời gian cho việc này.
Bên cạnh đó, khả năng hoạch định chiến lược của các nhà quản lý
DNNVV cũng còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù hoạch định chiến lược là một
quy trình xác định các định hướng lớn cho phép doanh nghiệpthay đổi, cải
thiện và củng cố vị thế cạnh tranh của mình, nhưng việc ứng dụng quy trình
này thì hầu như cho đến nay mới chỉ là “mảnh đất riêng” cho các doanh
nghiệp lớn. Vẫn còn rất nhiều DNNVV chưa quan tâm đến công tác này, điều
này được giải thích bởi nhiều lý do:
(1) Do không có thời gian, ở các doanh nghiệp nhỏ, người chủ doanh
nghiệp là người điều hành trực tiếp, do đó thời gian của họ chủ yếu dành cho
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
25
việc giải quyết những vấn đề tác nghiệp hàng ngày và hầu như không còn thời
gian để quan tâm tới việc hoạch định dài hạn.
(2) Do không quen với hoạch định chiến lược hoặc họ cho rằng chiến
lược không có liên quan nhiều đến tình trạng kinh doanh của họ.
(3) Do thiếu các kỹ năng cần thiết và hạn chế về trình độ nên tầm nhìn
của các chủ doanh nghiệp bị bó hẹp, thiếu khả năng hoạch định chiến lược dài
hạn cho công ty.
Chính vì thế khi tham gia vào thị trường toàn cầu, trong điều kiện thị
trường cạnh tranh gay gắt và luôn biến động, các DNNVV Việt Nam thường
tỏ ra lúng túng và bị động, không biết rõ phải làm gì, ở khâu nào, bộ phận nào
và như thế nào để đối phó tình hình. Do kế hoạch chỉ là ước tính, tổng quát
nên các doanh nghiệp không đánh giá được các điểm mạnh – yếu, không biết
rõ khâu nào đang kém hiệu quả và có thể làm tốt hơn. Vì vậy, doanh nghiệp
không chủ động trong việc cải tiến quy trình, nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Nguồn nhân lực
Thực trạng nguồn nhân lực của khu vực DNNVV Việt Nam không tách
rời thực trạng chung của lực lượng lao động Việt Nam. Bên cạnh những ưu
thế không thể phủ nhận như lực lượng lao động dồi dào, tỷ lệ lao động trẻ cao,
giá cả sức lao động tương đối thấp…lực lượng lao động Việt Nam đang đối
mặt với nhiều hạn chế được xem là trở ngại chính ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh, năng lực tham gia vào thương mại quốc tế của các doanh nghiệp
Việt Nam nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
* Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng trong tổng lực
lượng lao động còn thấp.
Đến 1/7/2006, tính chung trong cả nước, số người được đào tạo nghề
nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghề trở lên) chỉ
chiếm có 24,62% tổng lực lượng lao đọng. Hơn thế nữa, hầu hết những người
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
26
có trình độ cao đều có tâm lý muốn làm việc ở những công ty lớn do được trả
lương cao.
Trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản
lý doanh nghiệp còn hạn chế. Chỉ có 3,5% trong tổng số lao động trong doanh
nghiệp đạt tiêu chuẩn sử dụng thành thạo máy vi tính. Điều này cho thấy khó
có thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập trong thời gian tới, nhất là
trong thời đại của kinh tế tri thức và công nghệ thông tin bùng nổ.
* Tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp chưa cao
Đại bộ phận người lao động hiện nay còn chưa được đào tạo về kỷ luật
lao động công nghiệp. Phần lớn lao động hiện nay là lao động thủ công, chỉ
qua đào tạo nghề ngắn hạn hoặc là những lao động chuyển từ sản xuất nông
nghiệp sang, còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu
nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động hiện nay chưa được
trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, chưa có khả năng hợp
tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh
nghiệm làm việc.
3. Về thƣơng hiệu và thị trƣờng
3.1. Thương hiệu
* Vấn đề tạo dựng thương hiệu chưa được các DNNVV quan tâm đầu tư
Phải thừa nhận rằng trong một vài năm gần đây, khi nền kinh tế nước ta
bước vào hội nhập quốc tế, nhận thức của các doanh nghiệp về vấn đề thương
hiệu cũng có sự thay đổi lớn. Kết quả điều tra mới đây của Báo Sài Gòn Tiếp
thị và câu lạc bộ ngành hàng Việt Nam Chất lượng ở 500 doanh nghiệp cho
thấy: 57% doanh nghiệp coi việc xây dựng thương hiệu và phát triển thương
hiệu là mối quan tâm hàng đầu; 43% doanh nghiệp coi thương hiệu là hình
ảnh, uy tín của doanh nghiệp. Đặc biệt, kết quả này không có sự khác biệt
giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước. Điều đó chứng tỏ,
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
27
dưới sức ép cạnh tranh của thị trường, các doanh nghiệp đã ý thức đến những
thành quả của mình đạt được, để giữ nó thì phải nỗ lực phấn đấu khẳng định
tên tuổi trên thị trường. Tuy nhiên, một thực tế đặt ra là, mặc dù các doanh
nghiệp đã quan tâm đến thương hiệu nhưng phần lớn chưa quan tâm đầu tư
một cách có hệ thống ngay từ khi xây dựng doanh nghiệp: trong 500 doanh
nghiệp Việt Nam cho thấy, hơn 50% doanh nghiệp chưa có bộ phận chuyên
trách về thương hiệu; 80% doanh nghiệp không có chức danh quản lý nhãn
hiệu.
Thực tế hiện nay, kinh phí và nguồn nhân lực dành cho xây dựng, phát
triển thương hiệu của nhiều donh nghiệp, đặc biệt là DNNVV còn rất khiêm
tốn. Bên cạnh nguyên nhân về nhận thức một nguyên nhân chủ yếu khác là
phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam tiềm lực tài chính còn hạn chế dẫn đến
hạn chế chi phí đầu tư tài chính cho việc xây dựng, quảng bá thương hiệu.
Bên cạnh đó, khi xây dựng thương hiệu, các doanh nghiệp Việt Nam
chủ yếu mới chỉ tập trung vào những ký hiệu, biểu tượng , hình vẽ mà bỏ qua
những yếu tố quan trọng nhằm nâng cao giá trị thương hiệu như: uy tín, chất
lượng sản phẩm, đảm bảo ổn định thời gian giao hàng, mẫu mã, chủng loại,
dịch vụ khách hàng…
* Vấn đề bảo vệ thương hiệu chưa được nhận thức một cách đầy đủ
Trong giai đoạn 1990-2000, hàng năm có trung bình 4000 doanh
nghiệp đăng ký nhãn hiệu và từ năm 2001 đến nay, khi Việt Nam dần hội
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, mỗi năm có khoảng trên 1 vạn nhãn hiệu
xin đăng ký và tăng trưởng khoảng 20-25% năm. Riêng năm 2005 có 22.000
nhãn hiệu được nộp đơn đăng ký tại Cục sở hữu trí tuệ, trong đó, số doanh
nghiệp Việt Nam chiếm gần 50%, số còn lại thuộc các doanh nghiệp của hơn
100 nước khác trên thế giới. Đây là một tiến bộ rất lớn về ý thức bảo hộ tài
sản trí tuệ của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy vậy, theo thống kê cũng chỉ mới
có khoảng 25% doanh nghiệp Việt Nam đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
28
Hiện nay mới chỉ có khoảng 300 đến 400 nhãn hiệu Việt Nam được
đăng ký ở nước ngoài trong số 6000 doanh nghiệp nhà nước, 2000 doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và 50000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với hàng
trăm nghìn nhãn hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam trên cả nước.
Điều này không chỉ nói lên tình trạng yếu kém, mà còn thể hiện tầm nhìn hẹp
của các doanh nghiệp Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay đối với
vấn đề nhãn hiệu. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, đến nay đã có hàng
chục doanh nghiệp của Việt Nam bị mất nhãn hiệu tại các thị trường lớn. Các
doanh nghiệp này không hề biết nhãn hiệu của mình đã được đăng ký bảo hộ
ở nước ngoài cho đến khi chính họ bị phía nước ngoài đệ đơn kiện đòi bồi
thường thiệt hại do “sử dụng nhãn hiệu trái phép”, hoặc không được xuất
khẩu vào thị trường đó vì nhãn hiệu đã bị đăng ký. Những doanh nghiệp lớn
bị mất thương hiệu có thể kể đến: Thuốc lá Vinataba (một công ty của
Indonesia nhanh chân đăng ký nhãn hiệu này tại 12 nước Châu Á), Vifon Việt
Nam (tại thị trường Mỹ, một công ty Nhật đã đăng ký nhãn hiệu “Vifon” và
“Vifon Acecook”), bia Hà Nội (mất thương hiệu ở thị trường Ba Lan), Petro
Việt Nam (bị một tập đoàn có tên là Nguyễn Lai đăng ký quyền sở hữu ở Mỹ
ngày 18-7-2002). Hầu hết các DNNVV cũng chưa quan tâm đến việc đăng ký
nhãn hiệu ở nước ngoài. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:
(1) Thương nhân Việt Nam chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng
của thương hiệu hàng hoá, từ đó xem nhẹ việc đăng lý bảo hộ quyền sở hữu
công nghệ đối với thương hiệu của mình, không chỉ tại thị trường nước ngoài,
mà ngay cả ở thị trường trong nước.
(2) Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xác định được chiến lược kinh
doanh, đặc biệt là kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế và tập trung
phát triển kinh doanh dài hạn tại các thị trường trọng điểm. Do đó, các doanh
nghiệp thường cho khi sản phẩm đã thâm nhập được vào thị trường rồi mới
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của DNNVV trong thời kỳ hội
nhập
Nguyễn Thị Huyền Trang Pháp 1-K42-KTNT
29
đăng ký thương hiệu. Đây cũng là tâm lý làm ăn nhỏ và mang đậm nét của
một nước nông nghiệp là chủ yếu.
(3) Hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về luật pháp quốc tế
trong lĩnh vực này, nhất là Luật Quyền sở hữu trí tuệ tại các quốc gia mà
doanh nghiệp muốn giành thị phần để bán hàng còn hạn chế. (4) Trách nhiệm
của các cơ quan chức năng nhà nước trong việc chậm tuyên truyền và hướng
dẫn cho các doanh nghiệp trong vấn đề đăng ký thương hiệu quốc tế.
Tóm lại để tạo dựng thành công và sử dụng thương hiệu như công cụ
để tồn tại và giấy phép thông hành thâm nhập vào thị trường quốc tế là cả một
bài toán khó với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói
riêng. DNNVV Việt Nam sẽ phải tìm ra một hướng đi riêng cũng nhu phải có
sự liên kết trong cộng đồng các DNNVV Việt Nam, cùng sự hỗ trợ từ phía
Nhà nước và các tổ chức, để có thể khẳng định chỗ đứng trên thị trường toàn
cầu.
3.2. Thị trường
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay ngày càng có nhiều DNNVV tham gia vào thị trường toàn cầu nhằm tận
dụng các cơ hội mà thị trường toàn cầu mở ra. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
Việt Nam bộc lộ khá nhiều hạn chế trong việc tiếp cận thị trường.
Về thị trường xuất khẩu, các DNNVV Việt Nam nói riêng cũng như
các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn chưa thực sự chủ động trong việc
tiếp cận thị trường cho các sản phẩm của mình. Theo số liệu điều tra 12 tỉnh,
thành phố của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới đây, 51% số
DNNVV Việt Nam làm hàng gia công theo các đơn đặt hàng của nước ngoài
chứ chưa tìm kiếm được thị trường của riêng mình, rất nhiều DNNVV chỉ
nhận được các đơn hàng gia công từ các DNNN có quota chứ không gia công
và xuất khẩu trực tiếp, do đó rất lệ thuộc và bị động với sự thay đổi thị
trường.