Khóa luận tốt nghiệp: Đàm phán thương mại bằng phương thức gặp gỡ trực tiếp doanh nghiệp Việt Nam và đối tác Nhật Bản
8,072
787
110
48
doanh nghiệp Nhật Bản rất quan tâm đến chất lượng hàng hoá, họ đánh giá rất cao
những nhà xuất khẩu có uy tín về cung cấp hàng hoá dịch vụ chất lượng cao trên
thị
trường và sẵn sàng trả giá cao hơn mức giá thị trường để sở hữu những mặt hàng
có
chất lượng đảm bảo và được cung cấp bởi các doanh nghiệp có uy tín lâu năm. Vì
thế các thương nhân Nhật Bản thường yêu cầu đối tác cung cấp trước mẫu hàng,
catalogue chi tiết giới thiệu sản phẩm, các tài liệu kỹ thuật chi tiết và mới
nhất cũng
như đánh giá rất cao những đối tác có thiện chí cung cấp các tài liệu trên cho
họ.
Điều đó có thể tạo cơ sở cho sự tin tưởng từ phía Nhật Bản đối với bạn hàng, và
là
điều kiện quan trọng thúc đẩy quá trình đàm phán trực tiếp đi đến thành công.
Thông tin thứ ba mà các doanh nghiệp Nhật Bản rất quan tâm trước mỗi cuộc đàm
phán trực tiếp chính là thông tin về nhân sự trong đoàn đàm phán của phía đối
tác.
Họ thường tìm hiểu rất kỹ các thông tin về tâm lý, tính cách, chức vụ, chức năng
và
vai trò của từng thành viên trong đoàn đàm phán phía đối tác. Họ rất coi trọng
việc
được thông báo chi tiết về nhân sự, bố trí thời gian và địa điểm đàm phán trực
tiếp.
Bên cạnh đó, họ còn chú trọng tới các lễ nghi trong giao tiếp ban đầu, tặng quà,
chiêu đãi, mời đi tham quan,…nhằm tạo điều kiện tìm hiểu thêm những thông tin có
ích về đối tác, từ đó giúp họ có đủ cơ sở thông tin để xây dựng kế hoạch và
phương
án đàm phán cụ thể và phù hợp.
Công việc thứ hai trong quá trình chuẩn bị đàm phán cũng không kém phần quan
trọng và được các thương nhân Nhật Bản đầu tư nhiều thời gian và công sức chính
là việc tổ chức đoàn đàm phán. Thông thường quá trình lựa chọn nhân sự cho đàm
phán trực tiếp của phía Nhật Bản diễn ra rất nhanh, tuy vậy tính thống nhất và
tính
tổ chức của các nhóm đàm phán đại diện cho phía công ty Nhật Bản lại rất cao. Lý
do là vì các thành viên trong đoàn đàm phán phần lớn là những người đã có thời
gian làm việc với nhau tương đối dài, nên họ khá ăn ý và hiểu nhau, điều đó
khiến
cho tất cả các thành viên trong đoàn đều rất chủ động và tự tin khi bước vào bàn
đàm phán. Tuy nhiên, khi thương vụ có tính phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực
thì phía Nhật Bản sẽ tổ chức đoàn đàm phán gồm các thành viên từ các bộ phận
khác nhau trong công ty, còn gọi là các đoàn đàm phán ad-hoc. Khi đó, các thành
viên sẽ tổ chức những cuộc họp nội bộ trước đàm phán chính thức, đây là thời
gian
49
để các thành viên phân công nhiệm vụ, bầu trưởng đoàn, phát ngôn viên, thống
nhất
về quan điểm và lập trường, … Nói chung, đây còn gọi là quá trình xây dựng tính
tổ
chức và gắn kết cao độ giữa các cá nhân trong đoàn đàm phán của phía Nhật Bản.
Một điểm đáng chú ý khác khi đàm phán trực tiếp với các doanh nghiệp Nhật Bản
là cơ cấu thành phần những người trực tiếp tham gia đàm phán với đối tác nước
ngoài. Mặc dù ở Nhật Bản, các công ty thường tổ chức các buổi lễ ký kết hợp đồng
rất long trọng, trong đó chủ tịch, hoặc tổng giám đốc của 2 công ty sẽ cùng ký
vào
bản hợp đồng trước đông đảo mọi người, thế nhưng hiếm khi họ trực tiếp tham gia
thương lượng các hợp đồng đó, công việc này thường giao cho các lãnh đạo cấp
trung trong công ty đảm nhiệm. Người Nhật thường chọn thành phần vào đoàn đàm
phán đại diện cho công ty của họ dựa vào một số tiêu chí sau: năng lực, tuổi
tác,
kinh nghiệm, thâm niên công tác, chức vụ, địa vị xã hội, giới tính… Bên cạnh yếu
tố năng lực và kinh nghiệm, vẫn thường được các thương nhân Mỹ và Tây Âu ưu
tiên hàng đầu, người Nhật còn đặc biệt chú trọng tới yếu tố chức vụ, tuổi tác và
giới
tính của người đàm phán. Điều này có nguồn gốc từ bản chất của xã hội Nhật Bản
là
xã hội có liên kết dọc, trong đó các mối quan hệ giữa con người được xác định
theo
trật tự vị trí, và được thiết lập một cách rõ ràng theo các tiêu chí nói trên
(tuổi tác,
giới tính, chức vụ, trình độ văn hoá). Vì thế những cá nhân đại diện cho các
công ty
Nhật Bản đàm phán những thương vụ lớn với nước ngoài thường phải là những
người có tuổi, có chức vụ tương đối cao trong công ty và phải có thâm niên công
tác
trong công ty đó ít nhất là từ 15 cho đến 20 năm. Vì thế các nhà đàm phán Nhật
Bản
thường cảm thấy rất khó chịu và thậm chí phung phí thời giờ nếu phải đàm phán
với
những đối tác không có quyền ra quyết định, hoặc quá trẻ tuổi. Do đó để có thể
đàm
phán thành công với các công ty Nhật Bản thì các thương nhân nước ngoài nên chú
trọng tới việc xây dựng đoàn đàm phán có sự tương ứng về cấp bậc và tuổi tác với
phía Nhật
Đối với các thương nhân Nhật Bản, việc xây dựng mục tiêu rõ ràng trước khi bước
vào mỗi một giao dịch là điều hết sức quan trọng. Khi xây dựng mục tiêu, người
Nhật thường tập trung vào nghiên cứu các vấn đề xoay quanh hệ thống các câu hỏi
cái gì, khi nào, ở đâu và tại sao. Dựa trên cơ sở những thông tin thu thập được
về
50
đối tác, hàng hoá, tình hình thị trường, xây dựng nhóm đàm phán, các doanh
nghiệp
Nhật Bản thiết lập kế hoạch đàm phán với những mục tiêu rất cụ thể như: lợi ích
theo đuổi, chiến lược đàm phán, chiến thuật, dự trù các tình huống có thể xảy ra
và
các phương án giải quyết… Những kế hoạch đàm phán của phía Nhật được đưa ra
bao giờ cũng phải được dựa trên cơ sở sự nhất trí của tập thể, do đó các nhà đàm
phán Nhật Bản thường rất tự tin, chủ động và biết cách điều khiển diễn biến quá
trình thương lượng theo hướng có lợi cho họ, tránh được sự luống cuống đối những
vấn đề chưa được tập thể thông qua, từ đó giữ vững lập trường và theo đuổi sát
sao
mục tiêu đàm phán đề ra.
Về việc chuẩn bị địa điểm và thời gian tổ chức đàm phán, các doanh nghiệp Nhật
Bản thường cố gắng lựa chọn thời gian địa điểm thật phù hợp cho cả hai bên. Nếu
đàm phán được tổ chức tại Nhật Bản, phía Nhật luôn tránh tổ chức đàm phán vào
những ngày liền kề các ngày nghỉ cuối tuần, hoặc những ngày nghỉ lễ chính thức
trong năm (ngày lễ cuối năm và dịp năm mới, trung thu, tuần lễ vàng,…) Về địa
điểm đàm phán, phía Nhật thường tổ chức tại các phòng họp trang trọng, ngăn nắp,
và sạch sẽ, còn khi ra nước ngoài đàm phán, họ đánh giá rất cao những đối tác
cẩn
thận trong việc sắp xếp và bố trí không gian đàm phán tạo cảm giác thoải mái cho
cả hai bên. Một vấn đề nữa cũng được nhiều nhà kinh doanh Nhật Bản quan tâm là
việc bố trí chỗ ngồi tại bàn đàm phán. Ở Nhật, việc ai ngồi ở đâu cũng là cả một
vấn
đề vô cùng tế nhị bởi nó có liên quan mật thiết tới địa vị, chức vụ và tuổi tác
của
những người tham gia. Vì thế, khi đàm phán với các đối tác Nhật Bản, thương nhân
nước ngoài cần hết sức chú ý tới việc sắp xếp chỗ ngồi cho 2 bên tham gia đàm
phán để sao cho trật tự vị trí, địa vị của các thành viên được đảm bảo và tôn
trọng,
có như vậy mới tạo được bầu không khí đàm phán thoải mái, gây được thiện cảm
cho phía đối tác Nhật Bản và tạo thuận lợi cho quá trình thương lượng trực tiếp
giữa
các bên.
2.1.3. Đặc trƣng trong giai đoạn đàm phán trực tiếp
Quá trình đàm phán trực tiếp là quá trình người bán và người mua tiếp xúc, gặp
gỡ
tìm hiểu lẫn nhau và tiến hành thương lượng trực tiếp các vấn đề có liên quan
đến
51
thương vụ. Đây được coi là giai đoạn khó khăn và phức tạp nhất của quá trình đàm
phán, nên nó được chia thành 4 giai đoạn nhỏ như sau:
- Giai đoạn 1: làm quen ( nontask- sounding)
- Giai đoạn 2: trao đổi thông tin ( task- related exchange of information)
- Giai đoạn 3: thuyết phục ( persuasion)
- Giai đoạn 4: nhượng bộ và thoả thuận ( concessions and agreements)
Giai đoạn 1 là giai đoạn làm quen, bao gồm những hoạt động như thiết lập mối
quan
hệ, gặp gỡ tiếp xúc cá nhân nhằm tìm hiểu lẫn nhau, nhưng nó không liên quan đến
các thông tin trực tiếp thuộc vấn đề đàm phán. Giai đoạn 2 là giai đoạn trao đổi
thông tin, đưa ra các yêu cầu, đề xuất, trình bày các nguyện vọng, quan điểm,…
của
các bên. Giai đoạn 3 là thuyết phục, bao gồm việc các bên cố gắng giảm bớt các
lợi
ích chủ quan của đối tác thông qua các kỹ thuật và chiến thuật thuyết phục khác
nhau. Còn giai đoạn cuối cùng là giai đoạn đưa ra các nhượng bộ, xử lý các
nhượng
bộ và đi đến thoả thuận cuối cùng. Dưới đây là những phân tích cụ thể và chi
tiết
các đặc trưng trong từng giai đoạn nói trên của các nhà kinh doanh Nhật Bản
Giai đoạn làm quen
Trong đoạn làm quen này, các bên thường mở đầu câu chuyện bằng những chủ đề
nằm ngoài vấn đề được đàm phán như: thời tiết, thể thao, kinh tế, chính trị, văn
hoá…Mục đích của giai đoạn này là tạo không khí thoải mái và tâm trạng vui vẻ
giữa người bán và người mua trước khi bàn bạc vào vấn đề chính. Ngoài ra, đây
còn
là giai đoạn đầu tiên giúp người đàm phán có thêm những thông tin có ích về đối
tác
như “họ là người như thế nào? có tin được hay không? thẩm quyền của họ ở công ty
đến đâu? tính khí họ ra sao?...” Các thương nhân Nhật Bản thường chú trọng và
giành nhiều thời gian cho giai đoạn làm quen này, đặc biệt là khi thương lượng
với
một đối tác kinh doanh mới, bởi đây là cơ hội để các bên tìm hiểu nhau kỹ hơn,
tiến
tới xây dựng lòng tin, tạo cơ sở nền tảng cho những thoả thuận sau này. Có một
điểm dễ thấy trong hoạt động giao tiếp kinh doanh của các thương nhân Nhật Bản
là
sự xuất hiện thường xuyên của một bên thứ ba ( introducer, go-between).Vai trò
của
bên thứ ba này đặc biệt quan trọng bởi sự xuất hiện của họ sẽ tạo cơ sở cho sự
tin
52
tưởng vững chắc và là điều kiện tiền đề không thể thiếu trong việc xây dựng mối
quan hệ mua bán với các bạn hàng mới. Khi một thương nhân nước ngoài lần đầu
tiên thương lượng với một công ty Nhật Bản mà trước đó họ chưa từng có quan hệ
gì cả về tư cách cá nhân lẫn nhân danh 1 công ty hay 1 tổ chức nào, thì ở giai
đoạn
tiếp xúc ban đầu này, họ cần được giới thiệu hoặc ủng hộ của một bên thứ ba được
giới kinh doanh Nhật Bản biết đến hoặc có uy tín nhất định và đã được phía đối
tác
Nhật Bản tin cậy. Bên thứ ba này được gọi là shokhai-sha trong tiếng Nhật, họ có
thể là các ngân hàng thương mại, các công ty lớn, các tổ chức kinh doanh đã có
quan hệ mua bán hoặc quen biết với phía công ty Nhật hoặc các tham tán thương
mại, các tổ chức xúc tiến thương mại đang hoạt động tại Nhật Bản. Vì thế khi
muốn
đặt quan hệ mua bán lần đầu với một công ty Nhật Bản, người nước ngoài không
nên mạo muội liên hệ trực tiếp với họ ngay mà nên tìm đến các shokai-sha có uy
tín
làm người giới thiệu cho mình, như vậy sẽ tạo được ấn tượng tốt trước bạn hàng
tiềm năng phía Nhật Bản, gây dựng lòng tin ban đầu với họ.
Thông thường trong giai đoạn làm quen, sau khi được giới thiệu của bên thứ ba,
các
bên đã có những ấn tượng tốt đẹp ban đầu về nhau, phía Nhật Bản đã có ấn tượng
“đối tác này tin cậy được”, thì công việc tiếp theo không kém phần quan trọng là
“xây dựng lòng tin” ( building trust) giữa 2 bên. Đây là mục đích lớn nhất của
giai
đoạn làm quen trong đàm phán trực tiếp bởi trong con mắt các nhà kinh doanh Nhật
Bản, lòng tin và tinh thần hợp tác hiểu biết lẫn nhau chính là chìa khoá dẫn tới
thành
công cho những thoả thuận cuối cùng cũng như cho cả những thương vụ về sau. Mở
đầu cuộc họp, phía Nhật Bản thường bắt đầu bằng những diễn văn khá dài giới
thiệu
về công ty, các thành công đã đạt được, thể hiện thiện chí hợp tác và mong muốn
xây dựng mối quan hệ mua bán tốt đẹp và lâu bền trong tương lai. Tiếp sau đó,
các
bên sẽ trò chuyện và bàn bạc về 1 số vấn đề ngoài lề nhằm tạo không khí thân
thiện,
tâm lý thoải mái trước khi đi vào thương lượng vấn đề chính. Phía Nhật thường
hỏi
đối tác những câu đại loại như “đây có phải là lần đầu tiên các ngài tới Nhật
Bản
không?”, “ chuyến bay của các ngài thế nào?”, và bàn luận về một số vấn đề liên
quan đến gia đình, người thân, các sở thích và mối quan tâm của nhau, hiểu biết
của
mỗi bên về đất nước, con người, phong cảnh của phía đối tác, hoặc 1 số lời nhận
53
xét (luôn luôn là tích cực) về sự hiếu khách của người dân nước chủ nhà. Mục
đích
của phía Nhật trong những cuộc thương lượng trực tiếp, nhất là khi được tổ chức
tại
nước họ, chính là muốn tạo cho đối tác có cảm giác như đang ở nhà, gây dựng được
sự tin cậy lẫn nhau, qua đó làm cho quá trình thương lượng diễn ra trong không
khí
thân thiện, hoà nhã, và lịch thiệp.
Giai đoạn trao đổi thông tin
Ở giai đoạn này, các bên tiến hành bàn bạc về những vấn đề đôi bên cùng quan tâm
như: hàng hoá, số lượng, chất lượng, giá cả,… qua đó lợi ích mà mỗi bên theo
đuổi,
lập trường của các bên được thể hiện rõ. Qua giai đoạn này, các bên sẽ tiến hành
truyền đạt thông tin và khai thác thông tin lẫn nhau. Cách tốt nhất và cũng được
dùng nhiều nhất để khai thác thông tin chính là đặt các câu hỏi. Việc đặt câu
hỏi
một cách khéo léo, đúng mục đích, đúng thời điểm sẽ cho phép người đàm phán
khai thác được đúng những thông tin mà họ cần từ phía đối tác. Bên cạnh việc
khai
thác thông tin, truyền đạt thông tin cũng không kém phần quan trọng. Cách truyền
đạt thông tin thông qua việc trình bày quan điểm, đưa ra các đề xuất, bảo vệ các
lập
luận cũng như trả lời các câu hỏi của phía bên kia như thế nào còn phụ thuộc vào
chiến lược, mục tiêu của người đàm phán đã được đặt ra trong kế hoạch.
Trong hầu hết các cuộc thương lượng trực tiếp, phần lớn người Nhật luôn tỏ ra
rất
lịch sự, ôn hoà, và khiêm nhường, nhưng ẩn đằng sau vẻ bề ngoài đó là ý nghĩ
“tôi
thắng, anh bại”. Họ coi đàm phán như một cuộc đấu tranh có kẻ thắng người thua,
nhưng vẫn cố gắng duy trì bầu không khí hoà nhã, lịch thiệp và giữ thể diện cho
các
bên. Nói cách khác người Nhật thường theo chiến lược đàm phán cạnh tranh, điều
này dễ thấy nhất qua giai đoạn trao đổi thông tin. Biểu hiện của người Nhật
trong
giai đoạn này mang 4 đặc trưng cơ bản sau:
- Đặt rất nhiều câu hỏi nhằm khai thác càng nhiều thông tin về đối tác càng tốt
- Trình bày vòng vo và tránh nói “không”
- Haragei và những tín hiệu từ cử chỉ và ngôn ngữ không lời
- “Im lặng là vàng” và những chào hàng kiểu “banana-sale”
Thứ nhất: đặt câu hỏi
54
Mục đích lớn nhất của việc đặt câu hỏi đối với các nhà đàm phán Nhật Bản là khai
thác thông tin. Nói theo ngôn ngữ của Robert M.March thì người Nhật là những
người luôn khát thông tin (information–hungry). Vì thế trong lúc đàm phán, họ
đặt
rất nhiều câu hỏi cho đối tác. Một số câu hỏi mà phía Nhật đưa ra có thể là nhằm
thăm dò thiện chí của đối tác, giúp họ đánh giá xem phía đối tác có tin tưởng
được
hay không, một số câu hỏi khác lại nhằm mục đích dò hỏi ý kiến, quan điểm và mối
quan tâm của đối tác, ví dụ như người Nhật có thể hỏi “các ngài có nhận xét gì
về
tình hình thị trường hiện nay?”. Người Nhật rất cẩn thận trong việc đặt câu hỏi,
cũng như rất cẩn thận ghi chép lại tất cả các câu trả lời mà họ nhận được từ
phía bên
kia của bàn đàm phán, bất luận giá trị thông tin đem lại trong các câu trả lời
ấy là
lớn hay nhỏ. Bên cạnh đó, các thương nhân Nhật Bản cũng nổi tiếng là những người
khéo léo trong việc lựa chọn thời điểm để đưa ra câu hỏi khai thác các thông tin
mật, những câu hỏi rất tinh tế kiểu như “tôi thấy giám đốc của các ngài có vẻ
rất
không hài lòng với điều khoản giá cả này…” lại có thể được đưa ra trong những
bữa ăn, những buổi trò chuyện, tham quan không chính thức giữa hai bên thay vì
được đưa ra ngay trên bàn đàm phán. Một nhà đàm phán nước ngoài ít kinh nghiệm
sẽ có thể trả lời một cách tự nhiên “Ồ không, ông ấy rất hài lòng với điều khoản
ấy
đó chứ”, giá trị thông tin từ những câu trả lời kiểu này có ý nghĩa rất lớn đối
với
phía Nhật Bản. Những thông tin như vậy sẽ tạo cho phía Nhật Bản lợi thế chủ động
trên bàn đàm phán đặc biệt là trong đàm phán cạnh tranh.
Một lý do khác của việc phía Nhật đặt ra nhiều câu hỏi là bởi quá trình ra quyết
định ở các công ty Nhật Bản thường dài và đòi hỏi phải có sự nhất trí của tất
các
thành viên. Trong nhiều trường hợp phía Nhật hỏi liên tiếp là nhằm mục đích duy
trì
thế chủ động trong đàm phán hoặc để cố tình kéo dài thời gian. Vì thế nhiều khi
họ
rất hay lặp lại câu hỏi hoặc nhiều thành viên trong đoàn đàm phán của phía Nhật
hỏi
cùng một thông tin. Điều này thường làm cho phía đối tác nước ngoài cảm thấy bị
xúc phạm và có suy nghĩ“họ không tin mình sao?”. Trong những trường hợp như
vậy, John Graham và Yoshihiro Sano (Japanese negotiator- Robert M.March-trang
140) đã đưa ra 3 biện pháp nhằm đối phó với chiến thuật khai thác thông tin này
của
phía Nhật:
55
- Nói tóm lược câu trả lời đã trình bày trước đó.
- Yêu cầu ghi lại những thông tin đã được trả lời để các bên cùng tham khảo và
đối
chiếu sau này.
- Nếu một câu hỏi lại được hỏi đi hỏi lại trên 3 lần thì có 3 khả năng: hoặc là
phía
Nhật muốn ta cung cấp thông tin thật chi tiết cụ thể mà câu trả lời trước đó
chưa
đáp ứng được, hoặc là họ chưa thực sự hiểu câu trả lời của ta. Trong trường hợp
đó, có thể lịch sự đáp lại phía Nhật như sau “chúng tôi đã trả lời câu hỏi này
của
các ngài, nhưng có lẽ còn một số thông tin mà các ngài cần nhưng chúng tôi
chưa kịp trình bày. Vậy các ngài có thể làm rõ câu hỏi hơn được không?”. Khả
năng thứ ba là phía Nhật đang muốn giành thế chủ động và thuyết phục ta, nếu
chưa sẵn sàng đưa ra nhượng bộ, cách tốt nhất là im lặng hoặc chuyển chủ đề.
Thứ hai: Trình bày vòng vo và tránh nói “không”
Người Nhật rất coi trọng việc giữ gìn hoà khí trong các mối quan hệ giữa con
người
với con người, đây được xem là nét đặc trưng của văn hoá Nhật Bản. Trong đàm
phán thương mại cũng vậy, người Nhật rất hiếm khi từ chối thẳng thừng những đề
xuất của phía đối tác, nhưng khi phải từ chối, họ cũng thể hiện điều đó một cách
rất
tế nhị. Khi phải đưa ra lời từ chối trước một yêu cầu nào đó của đối tác, người
Nhật
thường chọn cách nói vòng vo, ví dụ như “chúng tôi sẽ suy nghĩ về vấn đề này”
thay vì nói “Chúng tôi không đồng ý”. Thực ra khi người Nhật nói “sẽ suy nghĩ về
vấn đề này” có thể hiểu đó là một lời từ chối, bởi nếu thực sự phía Nhật muốn
suy
nghĩ thêm, họ sẽ giải thích cho phía đối tác rằng để quyết định có đồng ý hay
không, họ cần có sự nhất trí của các thành viên trong đoàn đàm phán và những
nhân
vật khác có liên quan trong công ty hoặc lấy những lý do khác để giải thích cho
sự
chậm trễ trong việc đưa ra câu trả lời. Thật vậy, người Nhật rất miễn cưỡng khi
phải
trả lời “không” cho bất kỳ vấn đề gì, bởi họ cảm thấy sự bác bỏ ý kiến của người
khác là một việc làm thô lỗ và bất lịch sự, nó khiến cho đối tác bị mất thể
diện.Vì
thế họ cố gắng dùng những cách khác để bày tỏ sự từ chối thay cho câu nói
“không”. Theo Keiko Ueda (Sixteen ways to avoid saying no in Japan- Keiko
56
Ueda-trang 185), có thể tóm lược 16 cách phổ biến sau đây mà người Nhật thường
dùng để tránh nói “không”:
1. Nói “không” một cách mập mờ ( vague “no”)
2. “Có” hoặc “không” một cách mập mờ và đa nghĩa ( vague and ambiguous
“yes” or “no”)
3. Im lặng (silence)
4. Hỏi lại ( counterquestion)
5. Trả lời vòng vo không vào vấn để chính ( tangential responses)
6. Rời khỏi bàn đàm phán (exiting)
7. Đánh trống lảng (lying)
8. Nhận xét chính câu hỏi (criticizing the question itself)
9. Từ chối câu hỏi ( refusing the question)
10. “Không” có điều kiện ( conditional “no”)
11. “Vâng, nhưng…” (“ yes, but…”)
12. Trì hoãn việc trả lời (Ví dụ: “chúng tôi sẽ gửi cho các ngài bằng văn bản”)
(
delaying answers)
13. Nói “không” nhưng dụng ý là “có” ( internally “yes”, externally “no”)
14. Nói “có” nhưng dụng ý là “không” ( internally “no”, externally “yes”)
15. Xin lỗi ( apology)
16. Sử dụng những từ gần nghĩa với từ “không” trong tiếng Anh (không dùng
trong đối thoại, chỉ dùng trong giao tiếp văn bản) ( the equivalent of the
English “no”)
Ngoài 16 cách thông dụng trên, người Nhật còn tránh nói “không” bằng cách
chuyển chủ đề, hoặc để các thành viên cấp dưới của đoàn đàm phán đưa ra lời từ
chối trong các cuộc gặp gỡ không chính thức. So với thương nhân các nước khác,
người Nhật có mật độ nói từ “không” ít nhất, trung bình mỗi 30 phút họ chỉ nói
“không” chưa đến hai lần, trong khi người Mỹ nói “không” đến 5 lần, người Hàn
Quốc là 7 lần, người Braxin là 42 lần. Đây là một nét đặc trưng trong hoạt động
đàm phán trực tiếp của các thương nhân Nhật Bản, nó chịu ảnh hưởng từ văn hoá
57
Nhật Bản là một nền văn hoá coi trọng lễ nghi, phép lịch sự, giữ gìn hoà khí và
tránh xung đột.
Thứ ba: Haragei và những tín hiệu thông tin từ cử chỉ và ngôn ngữ không lời
Trong xã hội Nhật Bản, do tính thuần nhất rất cao, sự cô lập về vị trí địa lý và
truyền thống xây dựng duy trì các mối quan hệ lâu dài giữa người với người nên
trong giao tiếp xã hội cũng như trong giao tiếp kinh doanh, người Nhật rất coi
trọng
cách giao tiếp tế nhị, ý tứ. Họ tránh nói thẳng vào sự việc mà hay nói vòng vo
nhưng người nghe bằng trực giác vẫn có thể hiểu được dụng ý thật sự của người
nói. Hiện tượng này người Nhật gọi là “haragei”–tạm dịch là“ý tại ngôn
ngoại”(Stomach Language). Jane A.Corddry, một nhà nghiên cứu về Nhật Bản đã
giải thích như sau về haragei: “người Nhật coi haragei là đỉnh cao của nghệ
thuật
giao tiếp giữa người với người. Một người khi có vấn đề gì cần giải quyết hoặc
có
nhu cầu muốn đề nghị việc gì, thường thể hiện mong muốn của mình một cách kín
đáo và tế nhị. Người nghe không cần đòi hỏi người nói phải nói toạc ra mọi sự
việc
mà vẫn hiểu được ý của người nói thông qua trực giác. Do có cùng một lịch sử,
một
ngôn ngữ, một nền văn hoá, và một xã hội thuần nhất, nên người Nhật đã phát
triển
haragei lên thành “nghệ thuật giao tiếp bằng trái tim”, sử dụng càng ít lời nói
càng
tốt” (“how to do business with the Japanese” – Mark Zimmerman – trang 107)
Tất nhiên, trong đàm phán thương mại quốc tế, không phải lúc nào người Nhật cũng
giao tiếp theo phong cách haragei, nhưng hiện tượng haragei vẫn thường xuất hiện
rất phổ biến, làm cho đối tác nước ngoài gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt
các
thông tin mà phía Nhật muốn truyền tải. Dưới đây là một số ví dụ về haragei mà
các
thương nhân nước ngoài cần chú ý khi đàm phán với các doanh nghiệp Nhật Bản:
- “Yes, that’s right”: ý nói “vâng, tôi đang nghe ngài nói đây”, nghĩa là phía
Nhật
đang tích cực lắng nghe và khuyến khích đối tác tiếp tục trình bày.
- “Agreed!”: đây là thái độ tích cực và hứa hẹn khả năng phía Nhật có thể chấp
thuận, điều đó cho thấy lập luận của người đàm phán đang phát triển theo chiều
hướng thuyết phục.